Những vấn đề, sự kiện đang được dư luận quan tâm ở Việt Nam
Nâng cấp đối tác chiến lược toàn diện với Pháp, chủ tịch Tô Lâm muốn thể hiện năng lực ngoại giao, ổn định chính trị Việt Nam
Trong chuyến thăm chính thức Pháp, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm đã hội đàm với tổng thống Emmanuel Macron tại điện Élysée, Paris hôm 07/10/2024. Hai bên quyết định nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một chương mới trong quan hệ lịch sử song phương. Thắt chặt quan hệ với một nước xuất khẩu vũ khí lớn ở châu Âu có tác động đến khả năng quốc phòng của Việt Nam hay không ? Cột mốc ngoại giao do ông Tô Lâm đặt ra, phải chăng giúp vị tổng bí thư vủng cố quyền lực, đặc biệt là về ngoại giao ? Pháp, nước đầu tiên tại châu Âu, vừa trở thành thành viên thứ 8 trong câu lạc bộ các nước có quan hệ cấp cao nhất trong chính sách ngoại giao của Việt Nam, sau Trung Quốc (2008), Nga (2012), Ấn Độ (2016) Hàn Quốc (2022), Hoa Kỳ (2023), Nhật Bản (2023), Úc (2024).Việc thắt chặt quan hệ giữa hai nước sẽ giúp tăng cường hợp tác kinh tế song phương. Pháp hiện là đối tác thương mại lớn thứ năm của Việt Nam. Trao đổi thương mại song phương tăng 42 % trong hơn một thập kỷ qua, đạt 4,8 tỷ đô la vào năm 2023. Pháp cũng đã đầu tư vào gần 700 dự án tại Việt Nam, và là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 16 tại Việt Nam.Nhà nghiên cứu Zachary M. Abuza, tại đại học National College War , Hoa Kỳ, nhấn mạnh rằng Việt Nam coi phát triển kinh tế là “ưu tiên” . Ông giải thích : “Nếu nhìn vào các đối tác chiến lược toàn diện mà Việt Nam đã thiết lập, tất cả đều là các đối tác kinh tế lớn. Đây luôn là tôn chỉ của Việt Nam trong chính sách ngoại giao. Hà Nội đang nổ lực để trở thành một nước phát triển, hoặc ít nhất là trong nhóm nước có thu nhập cao từ nay đến 2045. Do vậy, nâng cấp quan hệ với Pháp là một lựa chọn quan trọng cho Việt Nam, có thể đơn giản là vì những di sản thuộc địa, dù xấu hay tốt. Paris có một trang sử dài với Hà Nội. và Việt Nam đã đấu tranh trong nhiều năm để giành lại độc lập từ Pháp. Do vậy, tôi nghĩ rằng, về mặt biểu tượng, đó là điều quan trọng để Pháp trở thành nước châu Âu đầu tiên mà Việt Nam thiết lập quan hệ này”.Sự tiếp nối "hợp lý"Về phần mình, Laurent Gédéon, giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, cho rằng việc nâng cấp quan hệ thể hiện sự tiếp nối “hợp lý” phát triển hợp tác giữa hai bên từ hơn chục năm qua, (sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2013). Cột mốc ngoại giao mới này còn được đánh dấu trong khuôn khổ mang tính biểu tượng cao của hội nghị thượng đỉnh Pháp ngữ lần thứ 19, lần đầu tiên ở Pháp sau 33 năm.Trong cuộc gặp nguyên thủ Pháp tại điện Élysée, tổng bí thư đảng Cộng Sản, chủ tịch nước Tô Lâm đã kêu gọi ông Emmanuel Macron dùng ảnh hưởng để sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU, và để gỡ bỏ “thẻ vàng” mà Ủy Ban Châu Âu áp đặt đối với các sản phẩm thủy hải sản của Việt Nam. Nhìn từ Paris, tăng cường quan hệ giữa hai nước cũng sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư Pháp và thâm nhập thị trường Việt Nam cũng như di dời một số hoạt động công nghiệp.Ngoài việc thúc đẩy lợi ích kinh tế, theo nhà nghiên cứu Gédéon, cả Hà Nội và Paris đều muốn đưa “vấn đề Trung Quốc” vào trong chiến lược ngoại giao của mình. Với tư cách là thành viên của các tổ chức khu vực, và có một số ảnh hưởng nhất định tại ASEAN, Việt Nam được xem cửa ngõ quan trọng để Paris tìm cách tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập cân bằng trong khu vực với Trung Quốc và có lợi cho Pháp.Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển ĐôngTuyên bố chung ngày 7/10/2024 khẳng định : ‘Hai bên cam kết duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông cũng như tuân thủ đầy đủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982. Cả hai bên kiên quyết phản đối mọi hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trái với luật pháp quốc tế; và tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì an ninh, tự do hàng hải và hàng không, không bị cản trở, cũng như quyền tự do đi lại ở Biển Đông…”Nhà nghiên cứu Gédéon cho rằng : “Việt Nam cũng trông cậy vào ủng hộ của Pháp về lập trường đối với Biển Đông… Điều đáng chú ý trong tuyên bố chung ngày 07/10 là việc Pháp nhắc đến việc hỗ trợ nguồn lực quân sự cho Hà Nội, đặc biệt là lực lượng cảnh sát biển. Và điều này, phù hợp với mong muốn của Việt Nam trong việc tăng cường năng lực làm chủ, kiểm soát không gian biển, trong bối cảnh tranh chấp với Trung Quốc. Trong trường hợp này, Pháp không xuất hiện với tư cách đơn thuần là nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam, nhất là những loại vũ khí có thể đe dọa trực tiếp Trung Quốc nếu xảy ra xung đột - hiện vẫn là giả thuyết. Tuy nhiên, khía cạnh quân sự lại không được làm quá nổi bật, tôi cho rằng là để không “xúc phạm” Trung Quốc. Theo tôi, Pháp có mối quan tâm về việc liệu Việt Nam có đủ phương tiện để tự vệ, và khả năng đối phó với xâm lược quân sự nếu cần thiết. Trung Quốc cũng đang lưu ý đến điều này. Nhưng phải nhắc lại rằng Việt Nam cũng duy trì quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, trong đó có hợp tác quân sự, bất chấp những sóng gió giữa hai bên”.Trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đa dạng hoá nguồn cung vũ khí, giảm dần phụ thuộc vào Nga, đối tác lịch sử của Hà Nội do lo ngại trước những tác động từ cuộc chiến ở Ukraina, chưa kể nhiều loại vũ khí từ Nga có thể lỗi thời, hoặc việc chuyển giao công nghệ phức tạp, vì cần biết tiếng Nga hoặc đến đào tạo tại Nga.Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụtĐối với Pháp, theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, Việt Nam là một thị trường tiềm năng và Paris nhận thấy nhu cầu của Việt Nam, cần thêm “tàu chiến, các loại chiến đấu cơ thế hệ mới, chẳng hạn như các máy bay Rafale.” Hơn nữa, nhà phân tích quân sự tại Natinal War College cho rằng “có thể Pháp sẽ dám mạnh tay hơn”, so với các nhà sản xuất từ các nước khác, quan tâm đến các hợp tác sản xuất, hoặc chuyển giao công nghệ cho Hà Nội. Việt Nam cũng tăng cường khả năng tự chủ vũ khí, sản xuất một số thiết bị quân sự. Tập đoàn Viettel của quân đôi Việt Nam, được cho là đã phát triển các hệ thống thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, ra đa, các thiết bị chỉ huy điều khiển,...Những nỗ lực quân sự của Việt Nam, đặc biệt là trong việc tăng cường quan hệ với Pháp, được nhìn từ Trung Quốc như thế nào. Chuyên gia về quân sự Zachary Abuza giải thích : “Dĩ nhiên là Bắc Kinh sẽ bất mãn trước bất cứ nỗ lực hiện đại hoá quân sự của Hà Nội, nhưng Trung Quốc chỉ có thể tự đổ lỗi cho các hành động gây hấn của mình ở Biển Đông. Tuy nhiên, bất cứ hợp tác nào giữa Việt Nam với Pháp đều ít mang tính đe dọa cho Trung Quốc hơn là với Mỹ. Điều mà các chiến lược gia Trung Quốc quan ngại là các loại vũ khí bất đối đối xứng (asymetric weapons), như tàu chống tên lửa hay các hệ thông không người lái (mà Việt Nam có thể sản xuất).“Củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”Một điều đáng chú ý khác trong chuyến thăm của ông Tô Lâm đến Pháp vừa qua, đó là “chưa bao giờ lãnh đạo Việt giữ đồng thời cả hai vị trí”, vừa là chủ tịch nước và tổng bí thư đảng Cộng Sản, mà thường chỉ giữ một chức vụ. (Ví dụ, trường hợp của Lê Khả Phiêu, giữ tổng Bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2000; Trần Đức Lương, chủ tịch nước năm 2002, Nông Đức Mạnh - tổng bí thư đảng Cộng Sản vào năm 2005; Cuối cùng là Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư vào tháng 3 năm 2018, trước khi trở thành chủ tịch nước vào tháng 10 năm 2018.)Giảng viên tại đại học sư phạm Lyon, Laurent Gédéon cho rằng việc nắm giữ cả hai chức vụ quan trọng, khi thực hiện các chuyến công du nước ngoài, giúp ông Tô Lâm “củng cố tính chính danh trong hành động và lời nói của mình”. Ông nói thêm : “Tôi cho rằng các chuyến thăm chính thức cùng những chuyến công du khác của ông Tô Lâm, có nhiều mục đích, trong đó muốn chứng tỏ rằng Việt Nam đã lật sang trang mới sau một thời kỳ hỗn loạn chính trị, (2 chủ tịch nước đã từ chức trong vòng hai năm, 2023-2024). Những biến động này đã tác động lớn đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, nảy sinh các câu hỏi về sự ổn định của chế độ chính trị. Chuyến thăm này như là một câu trả lời, khẳng định rằng thời kỳ bất ổn đã ở phía sau, cũng như tái khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.Theo tôi, chuyến thăm của ông Tô Lâm tại Pháp, cũng không hề đặt vai trò tổng bí thư làm nền. Tổng bí thư cũng đã gặp bí thư quốc gia đảng Cộng Sản Pháp, Fabien Roussel, khẳng định rằng cuộc gặp là cơ hội để tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Pháp mà ông nhấn mạnh đến Hồ Chí Minh - một trong những thành viên sáng lập. Như vậy, có thể thấy rằng ông Tô Lâm không tách rời hai chức vụ của mình mà trái lại, lần lượt khẳng định vai trò của từng vị trí, tùy theo người đối thoại và bối cảnh”Công du nước ngoài để thể hiện năng lực ngoại giaoChuyến thăm Pháp của ông Tô Lâm nằm trong hành trình công du hơn 10 ngày, với các chặng dừng tại Mông Cổ và Ireland. Kể từ khi nhậm chức chủ tịch nước vào ngày 22.05, chức vụ mang tính nghi thức trong “Tứ trụ” ở Việt Nam, ông Tô Lâm, đã thực hiện nhiều chuyến công du nước ngoài mang tính truyền thống của Việt Nam, trước tiên là sang Lào, Cam Bốt, thể hiện mức độ chú trọng của Việt Nam về mặt ngoại giao với các đối tác láng giềng, mà Hà Nội có quan hệ mật thiết.Đến ngày 3 tháng 8 vừa qua, với 100% phiếu ủng hộ, chủ tịch nước Tô Lâm đã được Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản, khóa 13 bầu làm tổng bí thư nhiệm kỳ 2021-2026. Vài tuần sau khi nắm giữ đồng thời hai chức vụ quan trọng, ông Tô Lâm tiếp tục các chuyến thăm nước ngoài, sang Trung Quốc thăm cấp Nhà nước, gặp chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Không lâu sau đó, tổng bí thư, chủ tịch nước tiếp tục lên đường, sang Mỹ, dự cuộc họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, có cuộc hội đàm với tổng thống Joe Biden bên lề sự kiện này. Và gần đây nhất là chuyến thăm cấp Nhà nước đến Mông Cổ, Ireland và dự hội nghị thượng đỉnh của khối Pháp ngữ, đồng thời thăm chính thức Pháp.Trước khi trở thành nhân vật quyền lực trong tứ trụ, ông Tô Lâm, với kinh nghiệm chính trường chủ yếu là ở trong nước, muốn thể hiện năng lực ngoại giao của mình qua các chuyến công du này. Theo nhà nghiên cứ Zachary Abuza, những nơi mà ông Tô Lâm đến, đều cho thấy rõ chính sách ngoại giao của Việt Nam, và Hà Nội vẫn luôn cố gửi tín hiệu đến Bắc Kinh, để khẳng định lập trường “trung lập, không liên minh”, và đều không trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh.“Trung Quốc luôn chỉ tay cảnh báo giới lãnh đạo Việt Nam phải có chính sách đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, ông Tô Lâm có lý do để thăm cấp Nhà nước đến Cuba, sau chuyến đi đến Hoa Kỳ, ngoài lý do lịch sử và một số hoài niệm về cách mạng (Cộng Sản). Trong khi, nếu xét về kinh tế, thì chuyến đi đến Cuba hoàn toàn vô nghĩa, lãng phí thời gian, bởi ông Tô Lâm đáng lẽ ra có thể đến ve vãn đầu tư nước ngoài từ Canada hoặc châu Âu, hoặc dành nhiều thời gian hơn ở Hoa Kỳ. Hay chuyến thăm tới Ireland, một trung tâm công nghệ cao ở Châu Âu, và dù không phải là một quốc gia lớn, nhưng ưu đãi thuế quan của nước này khiến Ireland trở thành một trung tâm đầu tư rất quan trọng ở Châu Âu, và cũng có những trường đại học tuyệt vời, mà Việt Nam muốn tăng cường trao đổi giáo dục”.Theo nhà nghiên cứu Zachary Abuza, ông Tâm Lô có vẻ rất muốn giữ hai chức vụ cùng lúc, như trường hợp của chủ tịch Tập Cận Bình ở Trung Quốc, vừa là lãnh đạo Cộng Sản, vừa là chủ tịch nước. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cho rằng “có những lo ngại” về việc ông Tô Lâm đang vi phạm quy tắc “do tập thể lãnh đạo”, quyền lực tối cao được “chia sẻ trong Tứ trụ”.Và chiều 21/10, trong ngày họp đầu tiên của kỳ họp thứ 8, Quốc Hội Việt Nam đã bầu ông Lương Cường, ủy viên bộ Chính Trị, thường trực ban Bí thư, giữ chức chủ tịch nước, nhiệm kỳ 2021-2026.
10/21/2024 • 9 minutes, 40 seconds
Trung Quốc biến Việt Nam thành lá bài quan trọng trong Con đường tơ lụa mới
Việt Nam muốn Trung Quốc hỗ trợ trợ xây dựng đường sắt ở miền bắc để kết nối sáng kiến "Hai hành lang, Một vành đai" với "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) của Trung Quốc. Theo ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này "sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu - Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á". Sáng kiến « Hai hành lang, Một vành đai », được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang « Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng » và hành lang « Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng » và « Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ ». Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Điều 7 Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của tổng bí thư-chủ tịch nước Tô Lâm.Việt Nam được lợi ích gì từ những dự án này ? Vai trò của Việt Nam trong kế hoạch Vanh đai và Con đường của Trung Quốc ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Việt Nam dự kiến nhiều kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt từ lâu. Vào tháng 04/2024, sau khi thông báo ý định trên, Việt Nam đã kêu gọi Trung Quốc hỗ trợ trong khi dường như Việt Nam đã lưỡng lự trong thời gian dài. Tại sao lại chọn thời điểm này ? Và tại sao lại là Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Dường như Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với Việt Nam thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng để xây dựng thiện chí và niềm tin song phương. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh trong bối cảnh mất lòng tin dai dẳng do các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông.Chúng ta thấy mong muốn hòa dịu và xích lại gần nhau giữa hai nước từ nhiều năm nay, được thể hiện rõ qua các chuyến thăm của nhiều quan chức cấp cao. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến thăm chính thức Việt Nam vào ngày 12 và 13/12/2023 theo lời mời của người đồng cấp Việt Nam lúc bấy giờ là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm này, ông Tập đã nêu một dự án xây dựng đường sắt liên doanh có thể nằm trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Đọc thêm : Thăm Trung Quốc, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ thúc đẩy kết nối đường sắt giữa hai nướcSau đó, chủ đề này đã được thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 24 đến 27/06/2024. Ông cho biết Việt Nam có kế hoạch xây dựng 3 tuyến đường sắt nối Trung Quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường, cụ thể là ba tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; Lạng Sơn - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng.Cuối cùng, chuyến thăm Bắc Kinh của tổng bí thư chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm vào ngày 19-20/08/2024 đã cho phép Trung Quốc và Việt Nam ký kết 14 thỏa thuận, nhằm tăng cường thương mại và kết nối biên giới, đặc biệt là kế hoạch đường sắt. Nhân dịp này, ông Tập Cận Bình khẳng định Việt Nam là « ưu tiên » trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Ông cũng cam kết mở rộng Sáng kiến Vành đai và Con đường bằng cách thúc đẩy xây dựng đường sắt, đường cao tốc và hải cảng.Tất cả những công bố và quyết định này đều nhất quán với Quy hoạch tổng thể đến năm 2050 với mục tiêu là kết nối mạng lưới đường sắt Việt Nam với tuyến đường sắt xuyên Á thông qua Trung Quốc và với mạng lưới đường sắt ASEAN thông qua Lào và Cam Bốt. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, hai tuyến đường sắt cao tốc sẽ được xây dựng từ nay đến năm 2030 và sẽ nối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc với các cảng trọng điểm Hải Phòng và Hà Nội.Cho nên theo tôi, có lẽ bối cảnh chung hiện nay được đánh dấu bởi nhiều yếu tố : mong muốn phát triển đường sắt của Việt Nam, nguồn vốn dồi dào và sẵn có bên phía Trung Quốc và cuối cùng là mong muốn của Trung Quốc giảm bớt căng thẳng với nước láng giềng phương Nam vào lúc căng thẳng có xu hướng gia tăng ở eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông. Tất cả những yếu tố này giải thích cho động lực phát triển hiện nay trong hợp tác Việt - Trung.RFI : Người ta thường nói đến rủi ro hoặc « bẫy nợ » khi nhắc đến các khoản vay từ Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những tác động như thế nào nếu nhận hỗ trợ từ Trung Quốc ? Liệu có thể có nguy cơ nào đó phụ thuộc vào Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Trong chuyến đi Trung Quốc vào tháng 06/2024, thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết chính phủ Việt Nam sẽ yêu cầu các cơ quan nghiên cứu soạn thảo một hiệp định liên chính phủ về việc triển khai ba tuyến đường sắt, trong đó nhấn mạnh đến « các khoản vay ưu đãi » từ Trung Quốc, « chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực » để Việt Nam có thể tự phát triển ngành công nghiệp đường sắt.Cũng cần lưu ý rằng bối cảnh hiện tại khá thuận lợi cho Việt Nam. Việc chuỗi cung ứng Mỹ và phương Tây rời khỏi Trung Quốc và tái tổ chức hoạt động, trong đó có Việt Nam, cũng đã buộc Trung Quốc phải tổ chức lại các mạng lưới chuỗi cung ứng sản xuất hướng sang Việt Nam. Đọc thêm : Việt Nam gia tăng sử dụng đường sắt Trung Quốc xuất hàng sang châu ÂuNhưng cũng cần phải cảnh giác vì Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là thép, nhựa và linh kiện điện tử thiết yếu để sản xuất thành phẩm. Động lực kinh tế đã làm gia tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và lên đến 50 tỷ đô la vào năm 2023, tăng gần 50% trong 5 năm qua. Do đó, sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu về cơ bản là nhờ vào hàng nhập khẩu Trung Quốc và bị phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Rõ ràng, sự phụ thuộc này, nếu đi kèm với khoản nợ đáng kể với Trung Quốc liên quan đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường sắt, có thể gây ra rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam, kể cả « bẫy nợ ».Tuy nhiên, chúng ta có thể lưu ý rằng bẫy nợ cho đến nay vẫn gây nhiều tác động đến các quốc gia nhỏ hơn Việt Nam, như Sri Lanka hay Montenegro. Tương tự, cần phải nhớ rằng lợi ích đầu tiên của một chủ nợ, kể cả đó là một Nhà nước, là phải thu hồi vốn cùng với lợi nhuận, hơn là thấy « con nợ » chìm sâu trong vòng xoáy nợ nần. Dù sao vẫn phải luôn cảnh giác vì một Việt Nam yếu kém và phụ thuộc về tài chính có thể trở thành một lá bài về địa-chính trị cho Trung Quốc.RFI : Ngược lại, đâu là những lợi ích mà Việt Nam có thể được hưởng từ những chương trình đầu tư này ? Laurent Gédéon : Nhờ kết nối, vận tải hàng hóa và du lịch được cải thiện, Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích từ những khoản đầu tư này, cả về kinh tế lẫn chính trị :Trước hết, nhờ tăng cường kết nối, Việt Nam sẽ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với các nước láng giềng ASEAN cũng như với Trung Quốc. Số lượng container được vận chuyển mỗi năm bằng đường sắt về nguyên tắc sẽ tăng lên, song song đó là giảm chi phí về hậu cần.Tiếp theo, ngành du lịch cũng sẽ được hưởng lợi nhiều nhờ sự gia tăng kết nối đường sắt này. Ngoài ra, sức hấp dẫn sẽ được tăng cường do tiết kiệm được đáng kể thời gian nhờ các mạng lưới đường sắt mới. Ví dụ, một chuyến tàu chở hàng từ Thành Đô hiện giờ mất khoảng bảy ngày để đến Hà Nội. Trước đây, hàng hóa từ Trùng Khánh về Việt Nam mất trung bình 20 ngày do phải đi đường biển qua Thượng Hải. Đọc thêm : Bắc Kinh và Hà Nội xem xét nâng cấp tuyến đường sắt xuyên qua vùng giàu đất hiếm của Việt NamCuối cùng, một tuyến đường sắt từ Trung Quốc xuyên qua Việt Nam có thể sẽ nâng tầm quan trọng của Việt Nam hơn về mặt chiến lược đối với Bắc Kinh và nâng cao vị thế của Hà Nội nếu nhìn từ góc độ Trung Quốc. Khi đó, Trung Quốc có lẽ sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc để Việt Nam là đối tác thân thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái cấu trúc, cũng như cạnh tranh Mỹ - Trung.Về mặt thực tiễn, các tuyến đường sắt được quy hoạch sẽ tích hợp mạng lưới của Việt Nam vào mạng lưới đường sắt xuyên Á, hiện có ba tuyến : tuyến ở giữa đi từ Côn Minh đến Lào và Bangkok ; tuyến phía tây đi qua Miến Điện và Thái Lan ; tuyến phía đông dự kiến đi qua Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan và kéo dài xuống phía nam tới Malaysia và Singapore.Cũng cần lưu ý rằng tuyến tàu chở hàng Trùng Khánh - Hà Nội hiện đã kết nối Việt Nam vào hành lang thương mại quốc tế đường bộ-đường biển mới International Land-Sea Trade Corridor (ILSTC). Xin nhắc lại rằng đây là hành lang thương mại và hậu cần có trung tâm hoạt động ở Trùng Khánh và kết nối với 190 cảng ở 90 quốc gia. ILSTC là một trong số nhiều hành lang thương mại trong Sáng kiến Vành đai và Con đường.Ngoài ra, còn phải nói đến tuyến đường sắt giữa Việt Nam và Lào đang được nghiên cứu, theo dự kiến sẽ được kết nối với tuyến đường sắt hiện có giữa Trung Quốc và Lào. Dự án này sẽ giúp Lào tiếp cận với lĩnh vực hàng hải và sẽ tạo ra các luồng trao đổi kinh tế có lợi cho Việt Nam.RFI : Liệu thông qua những tuyến đường này có thể coi là Việt Nam tham gia vào dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc không ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần lưu ý rằng xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở cực đông của tất cả các tuyến đường và điều này khiến Việt Nam phần nào nằm bên rìa so với những nước khác. Việt Nam chỉ có thể được đưa vào dự án Con đường Tơ lụa mới thông qua hai tuyến : đường biển và hành lang Đông Dương. Liên quan đến Con đường Tơ lụa trên biển, Việt Nam nằm ngoài dự án này vì chỉ có cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đường dự tính ban đầu. Cho nên, khả năng lớn nhất để Việt Nam hội nhập vào Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là thông qua các tuyến trên đất liền.Về mặt chính thức, Tuyên bố chung về Tăng cường Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc và Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai được công bố vào ngày 20/08, nhân chuyến thăm của Tô Lâm tới Bắc Kinh, nhấn mạnh đến việc « Hai bên nhất trí thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, thực hiện hiệu quả kế hoạch hợp tác gắn sáng kiến Việt Nam « Hai hành lang, một vành đai » với sáng kiến « Một vành đai, một con đường » của Trung Quốc ; đẩy mạnh « kết nối cứng » về đường sắt, đường cao tốc và cơ sở hạ tầng biên giới ; […] ; Trung Quốc cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển quy hoạch các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn ». Do đó, việc đưa Việt Nam vào hệ thống, đặc biệt là những con đường tơ lụa mới trên đất liền, có lẽ là điều hiển nhiên. Đọc thêm : Việt Nam-Trung Quốc nhất trí xây dựng “Cộng Đồng Chia Sẻ Tương Lai”Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý đến một yếu tố mang tính chiến lược hơn và rất được Trung Quốc quan tâm trong kế hoạch này. Chúng ta thấy rằng tuyến Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cũng kết nối cảng Phòng Thành Cảng ở vùng duyên hải Quảng Tây. Trong khi cảng này nằm gần dự án kênh đào Bình Lục (Pinglu). Kênh này được dự kiến kết nối Nam Ninh, thủ phủ khu tự trị Quảng Tây, với vịnh Bắc Bộ. Thông qua tuyến đường này, hàng hóa có thể từ eo biển Malacca đi bằng đường biển vào Quảng Tây, rồi từ đó được chuyển vào sâu trong lục địa Trung Quốc, tránh đi qua eo biển Đài Loan.Rõ ràng lợi ích của dự án này là rất lớn, ở cấp độ chiến lược bởi vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc vẫn có thể vận chuyển thực phẩm và nguyên liệu thô qua kênh đào này, ngay cả khi toàn bộ tuyến đường Biển Đông, từ Hồng Kông đến Hoàng Hải, bị ngăn chặn. Với giả thuyết như vậy, chúng hiểu rằng Bắc Kinh cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam để những luồng vận tải này không bị gián đoạn.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
10/14/2024 • 10 minutes, 37 seconds
Trung Quốc phải đối phó với hợp tác tuần duyên Việt Nam-Philippines ở Biển Đông ?
Tại sao Việt Nam và Philippines không ngồi lại đối thoại với nhau về tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông để hợp lực đối phó với nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc ? Câu hỏi này từng được các nhà nghiên cứu Pháp nêu lên khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt (1). Những diễn biến gần đây cho thấy hai nước láng giềng Đông Nam Á đang có những bước đi đối thoại, thúc đẩy hợp tác trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc có chiến lược đối phó như thế nào ? Việt Nam - Philippines quyết định phối hợp về vấn đề Biển ĐôngKể từ đầu năm 2024, Việt Nam và Philippines liên tục có những hoạt động thúc đẩy hợp tác song phương. Bắt đầu là chuyến công Việt Nam của tổng thống Philippines Marcos Jr. vào cuối tháng 01. Tại đất nước được ông Marcos đánh giá là “đối tác chiến lược duy nhất của Philippines” ở Đông Nam Á, ngày 30/01, hai bên đã ký kết hai bản ghi nhớ về an ninh về “ngăn ngừa sự cố ở Biển Đông” và “hợp tác trên biển” giữa lực lượng tuần duyên hai nước. “Những thỏa thuận này có thể hiểu là sẽ có lợi cho cả hai nước”, theo nhận định với RFI Tiếng Việt ngày 26/02 của giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye (DKI APCSS) tại Hawai, Mỹ. Và “cũng có thể coi là bước đầu tiên tiến tới một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.Đây là cơ sở để phát huy những sáng kiến hợp tác tiếp theo. Cuối tháng 07, tàu CSB 8002 rời cảng Việt Nam để đến Philippines giao lưu và lần đầu tiên tham gia huấn luyện chung với đối tác Philippines ngày 09/08. Ngay sau đó, Lực lượng tuần duyên Philippines thông báo sẽ gửi một tàu đến Việt Nam vào cuối năm để thúc đẩy hợp tác hàng hải giữa hai nước. Trước đó, trong tháng 6 và 7, cả hai nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc lần lượt nộp lên Liên Hiệp Quốc Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở Biển Đông.Đến cuối tháng 08, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Philippines trong ba ngày từ 29-31/08. Hai bộ trưởng chứng kiến lễ ký Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa đường biển ; Ý định thư giữa hai bộ Quốc Phòng về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quân y. Sự kiện này được bộ trưởng Quốc Phòng Philippines Teodoro đánh giá là Manila và Hà Nội “đã thấy một nền tảng hợp tác vững chắc để xây dựng niềm tin”.Hợp tác Việt Nam - Philippines và tác động đến Trung Quốc Liệu hàng loạt sự kiện thắt chặt hợp tác về an ninh và hàng hải giữa Việt Nam và Philippines trong những tháng gần đây có trở thành một mối đe dọa cho Trung Quốc ? Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhận định :“Theo quan điểm của tôi, đây là vấn đề hợp tác kỹ thuật hơn là cách tiếp cận chiến lược của chính quyền Việt Nam. Vấn đề này nằm trong khuôn khổ hợp tác quân sự và an ninh cổ điển, kiểu hợp tác này cũng tồn tại với lực lượng tuần duyên Trung Quốc. Theo tôi, trước tiên chúng ta có thể thấy sáng kiến này phản ánh tính thực dụng của các nhà lãnh đạo Việt Nam và minh họa cho chính sách giữ khoảng cách cân bằng vốn là đặc trưng của ngoại giao Việt Nam. Hợp tác về mặt quân sự với Philippines cho phép Việt Nam thể hiện là một chủ thể đáng tin cậy trước các nước khác trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc, và có lợi thế là thể hiện rằng Hà Nội không từ bỏ tham vọng của họ ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Trường Sa.Các cuộc diễn tập chung vào tháng 08/2024, giữa thủy thủ Việt Nam và Philippines, đã xác nhận điểm này. Hai bên tập trung vào hỗ trợ và cứu hộ chứ không phải vào các hành động tấn công. Hai bên không gửi bất kỳ thông điệp thù nghịch nào tới Trung Quốc. Người ta cũng thấy rằng Việt Nam rất kín tiếng trong giai đoạn đỉnh điểm căng thẳng gần đây giữa Manila và Bắc Kinh. Trong những điều kiện này, ít có khả năng Bắc Kinh nhìn nhận là có một mối đe dọa trong diễn biến hiện nay về quan hệ giữa Việt Nam và Philippines”.Bắc Kinh hung hăng với Manila, “hòa dịu” với Hà NộiTrên thực tế, Trung Quốc cũng có cách tiếp cận và ứng xử rất khác nhau đối với Việt Nam và Philippines.“Theo tôi, đây là một diễn biến rất thú vị, trái ngược với những gì vẫn diễn ra cách đây 3 năm. Ngày nay, dường như có một cách tiếp cận khác từ phía chính quyền Trung Quốc đối với vấn đề Philippines và Việt Nam. Tôi nghĩ Trung Quốc có lợi khi Việt Nam và Philippines trái ngược nhau về lựa chọn chiến lược. Một lựa chọn khác của Trung Quốc, đó là để Philippines và Việt Nam duy trì quan hệ ở mức độ hợp tác kỹ thuật, chứ không phải là có tầm nhìn chung chiến lược vì điều này có thể sẽ gây bất lợi cho Trung Quốc. Chúng ta vẫn biết là Phililppines xích lại gần Hoa Kỳ hơn từ vài năm nay nhưng Việt Nam vẫn giữ khoảng cách với Mỹ. Cho nên vẫn cần phải theo dõi thêm về diễn biến mới này. Ngoài ra, những thay đổi chính trị gần đây ở Việt nam có thể cho thấy rằng xu hướng hiện nay có lẽ là xu hướng có lợi cho việc ổn định quan hệ với Trung Quốc hơn là gây căng thẳng”.Về chiến lược đối phó với những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với hơn 80% diện tích Biển Đông, Việt Nam và Philippines có chiến lược hoàn toàn khác nhau. Philippines công khai những sự cố, tranh chấp thậm chí là xô xát gây thương tích với tàu của lực lượng hải cảnh Trung Quốc, đặc biệt là ở hai điểm nóng bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và bãi cạn Sa Bin (Sabina). Bắc Kinh cũng không ngừng gia tăng sức ép đối với tàu của lực lượng tuần duyên Philippines cũng như chính quyền Manila. Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon phân tích :“Cần phải nhớ rằng tầm nhìn địa-chiến lược của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở biên giới Biển Đông mà còn xa hơn, một bên là phía đông Thái Bình Dương và bên kia là Ấn Độ Dương. Do đó, chắc chắn là sự chú ý chiến lược của Trung Quốc hiện đang chuyển hướng mạnh mẽ sang Philippines trong bối cảnh áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, trong đó có thông qua Manila”.Vì Bắc Kinh bận tập trung buộc tàu của Philippines rời khỏi hai bãi cạn, Hà Nội được cho là đã tận dụng thời gian lắng dịu trong căng thẳng với Trung Quốc ở Biển Đông để tăng tốc bồi đắp ở ít nhất 4 trên 6 rạn san hô chính ở quần đảo Trường Sa. Ngày 09/09, trang web Chathamhouse cho biết “các hình ảnh vệ tinh cho thấy hoạt động cải tạo đất quy mô lớn đang diễn ra tên các rạn san hô do Việt Nam kiểm soát. Hoạt động này, được xác định vào năm 2022, đã tăng đáng kể về quy mô trong năm nay (2024) và có vẻ sẽ tiếp tục”.Ví dụ tại Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef), tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải AMTI, trụ sở tại Washington (Mỹ), cho rằng có thể có một đường băng dài 3 km để chiến đấu cơ tầm xa có thể hạ cánh. Đảo Nam Yết (Namyit), sau khi được cải tạo trên diện rộng, hiện là thực thể lớn thứ hai của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, sau bãi Thuyền Chài. Theo hình ảnh được công ty Maxar Technologies chụp tháng 06/2024, một bến cảng lớn đã được nạo vét bên trong rạn san hô.Tuy nhiên, tốc độ bồi bắp của Việt Nam không thể bằng Trung Quốc. Điều đáng nói là mặc dù thường xuyên phản đối các yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, nhưng Trung Quốc lại rất ít bình luận về các hoạt động cải tạo đất hiện tại của Hà Nội. Lý do tại sao ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon giải thích :“Dưới thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã cải thiện quan hệ chính trị với Trung Quốc bằng cách tránh để gia tăng cạnh tranh lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, việc nâng cấp mối quan hệ Việt-Trung lên tầm “cộng đồng chung vận mệnh”, theo phát biểu của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 12/2023 nhân chuyến thăm Việt Nam, mà Hà Nội coi đây là “Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc”, cũng là một bước tiến quan trọng mà Hà Nội từng do dự trước đó, chủ yếu vì lý do tranh chấp trên biển giữa hai nước.Có nghĩa là nếu quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh dường như đang đi theo hướng ngày càng hòa bình hơn thì điều này không ngăn cản được những căng thẳng lẻ tẻ trên thực địa. Do đó, Việt Nam duy trì hợp tác quân sự tích cực với Philippines, điều này cho phép Hà Nội duy trì uy tín trước cả Bắc Kinh cũng như Washington và các đồng minh của Mỹ trong khu vực”. Điều đáng chú ý, được nhà nghiên cứu Laurent Gédéon nhấn mạnh, là sự cải thiện mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines tại các vùng biển tranh chấp, đặc biệt là các vụ đối đầu giữa lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Philippines. Dù không chính thức lên tiếng về việc Hà Nội thắt chặt hợp tác với Manila nhưng Bắc Kinh không quên gián tiếp “nhắc nhở” Hà Nội :“Người ta thấy rằng ngay trước khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức cuộc tập trận chung trên biển với Philippines vào ngày 09/08, trong vòng chưa đầy một tuần, một drone của Trung Quốc đã bay sát bờ biển Việt Nam hai lần, vào ngày 02 và ngày 07/08. Vụ xâm nhập thứ hai diễn ra ba ngày sau khi ông Tô Lâm được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng điều đáng chú ý lần này là Trung Quốc đã cố tình kích hoạt đèn hiệu của máy bay, mặc dù họ không hề làm như vậy trước đó. Việt Nam chưa lên tiếng về vụ việc này và có thể coi đây là tín hiệu chính trị từ Bắc Kinh nhằm làm giảm căng thẳng”.Một tháng sau sự kiện này, Vùng Cảnh sát biển Việt Nam 3 đã tổ chức một cuộc tập trận bắn đạn thật hiếm hoi, từ ngày 05 đến 11/09, ở ngoài khơi tỉnh Bình Thuận, để kiểm tra phản ứng trước các mối đe dọa an ninh và bảo vệ chủ quyền.Ngay khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Hai nước đã ra thông cáo chung ngày 20/08 và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông được nêu trong Điểm 10 của thông cáo : “(…) Hai bên nhất trí (…) cùng duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông (…)”, phù hợp với “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp”.(1) Việt Nam, Malaysia, Philippines: Gác tranh chấp, chống Trung Quốc ở Biển Đông?
10/7/2024 • 9 minutes, 31 seconds
Tiến trình bình thường hóa bang giao Việt Nam - Vatican: Chậm nhưng chắc
Sau nhiều thăng trầm, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican đã đạt được một bước tiến lớn với việc thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Thỏa thuận đã được thông qua vào tháng 7/2023 khi chủ tịch nước của Việt Nam vào lúc đó là Võ Văn Thưởng thăm Tòa Thánh và gặp giáo hoàng Phanxicô. Đến ngày 23/12 vừa qua, Tòa thánh Vatican đã chính thức công bố việc Tổng Giám mục Marek Zalewski được giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam. Tổng Giám mục Marek Zalewski nguyên là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore và đã kiêm nhiệm Đặc phái viên không Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam từ năm 2018. Việt Nam là quốc gia Cộng Sản duy nhất mà Vatican có đại diện thường trú. Một sự kiện đáng chú ý khác trong quan hệ Việt Nam - Vatican đó là vào tháng 4 năm nay, lần đầu tiên một ngoại trưởng của Tòa thánh đến thăm Việt Nam, đó là Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher. Chính quyền Hà Nội thì từ lâu cũng đã công nhận vai trò của Giáo hội Công giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam thông qua các hoạt động thiện nguyện, giáo dục, y tế, dạy nghề…. Tuy đã đạt được những bước tiến lớn như vậy, Hà Nội và Vatican cho tới nay vẫn chưa có dấu hiệu nào sẽ sớm bình thường hóa bang giao. Thậm chí, trong chuyến tông du của giáo hoàng Phanxicô đến Đông Nam Á và Thái Bình Dương, ngài cũng đã không đặt chân đến Việt Nam mặc dù trước đó giáo hoàng cho biết rất muốn là lãnh đạo đầu tiên của Giáo hội Công Giáo Hoàn Vũ đến thăm quốc gia vốn đã cắt đứt bang giao với Vatican sau năm 1975. Vì sao giáo hoàng đã không đến thăm Việt Nam trong chuyến tông du Đông Nam Á và Thái Bình Dương lần này? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2024, giảng viên lịch sử Đông Nam Á Trần Thị Liên Claire, chuyên về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, Đại học Paris Cité, giải thích:“Rõ ràng đó là do những thay đổi nhân sự lãnh đạo chính trị trong những tháng gần đây. Trước hết là vụ từ chức bất ngờ ngày 20/03 của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người đã ký thỏa thuận với Roma về việc bổ nhiệm một đại diện thường trực của giáo hoàng ở Hà Nội. Tiếp đến là việc bổ nhiệm ông Tô Lâm làm chủ tịch nước ngày 22/05. Rồi đến ngày 19/07, tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng qua đời, sau đó ông Tô Lâm được Bộ Chính trị giao kiêm nhiệm tổng bí thư ngày 03/08.Những thay đổi nhân sự lãnh đạo kể từ tháng 3, và trong thời gian đó tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp qua đời nên rất khó cho Việt Nam đón tiếp giáo hoàng. Tôi cũng xin lưu ý là hồng y Parolin, nhân vật giống như là thủ tướng của Vatican, lúc đó đã thay mặt giáo hoàng gởi lời chia buồn đến chủ tịch Việt Nam và đã đề cao vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa Vatican với Việt Nam. Bản thân ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng đến thăm Vatican năm 2013 và gặp giáo hoàng Benedicto 16.Đã có rất nhiều cuộc gặp cấp cao giữa hai bên, nhưng bối cảnh chính trị xáo trộn của Việt Nam trong những tháng gần đây giải thích vì sao không thể tổ chức chuyến thăm của giáo hoàng.”Như vậy là gần như sẽ không còn cơ hội cho giáo hoàng Phanxicô đến thăm Việt Nam như mong muốn của ngài, bởi vì vị lãnh đạo Giáo hội Hoàn vũ năm nay đã 87 tuổi rồi, sau chuyến tông du kéo dài đến 12 ngày lần này chắc là ngài sẽ không còn đủ sức để trở lại châu Á. Đây quả là điều rất đáng tiếc vì quan hệ giữa Tòa Thánh với Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những thập niên qua, đặc biệt là thái độ nghi ngại của Hà Nội đối với Tòa Thánh đã giảm đi rất nhiều, thể hiện qua việc chấp nhận cho Vatican bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam, theo nhận xét của nhà nghiên cứu về lịch sử tôn giáo Việt Nam Trần Thị Liên Claire:“Năm 2023 đã cho thấy là sự nghi ngại của phía Việt Nam đối với Vatican đã xuống đến mức thấp nhất. Việc chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào tháng 07/2023 ký kết thỏa thuận lần đầu tiên chấp nhận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một đại diện không thường trực ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng. Đây là vị đại diện thường trực đầu tiên kể từ khi vị khâm sứ của Tòa Thánh ở miền bắc bị trục xuất vào năm 1959 và sau đó là khâm sứ ở miền nam bị trục xuất năm 1975. Cho dù Tổng Giám mục Marek Zalewski chỉ là đại diện thường trú chứ chưa phải là sứ thần hay khâm sứ của Tòa Thánh, nhưng coi như đây là một đại diện của giáo hoàng, một chức vụ có tính biểu tượng cao và quan trọng. Năm 2023 đánh dấu một bước ngoặt, nhất là với lời mời giáo hoàng đến thăm Việt Nam của chủ tịch nước lúc đó là Võ Văn Thưởng. Lời mời này được đưa ra một ngày sau khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kết thúc chuyến thăm Việt Nam.Rất có thể là chính sách của Việt Nam sẽ không thay đổi. Cho dù ông Tô Lâm không được xem là một nhân vật cấp tiến mà đúng hơn là một nhân vật bảo thủ, ở Việt Nam, chính sách tôn giáo không chỉ có liên hệ với tôn giáo, mà còn liên hệ với những mục tiêu về ngoại giao, kinh tế, chiến lược. Vị đại diện thường trực của Tòa Thánh sẽ làm việc với Ban Tôn giáo của chính phủ, với bộ Ngoại Giao và trong vài tháng nữa chúng ta sẽ biết chính sách của ông Tô Lâm sẽ như thế nào.Có thể nói là kể từ khi thời Đổi Mới, thái độ nghi ngại đó đã giảm đi rất nhiều. Không phải không còn những bất đồng, nhưng tình hình chính trị ở sẽ không ảnh hưởng đến những thay đổi trong ba thập niên qua.”Nói chung, đối với giảng viên Trần Thị Liên Claire, có thể nói là tiến trình bình thường hóa bang giao giữa Việt Nam và Vatican diễn ra chậm nhưng chắc:“Như tôi đã nói, vẫn còn những bất đồng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh là đối thoại giữa hai bên chưa bao giờ bị gián đoạn, nhờ thái độ thực dụng của ba nhân tố chính: Đảng Cộng sản Việt Nam, Vatican và Hội đồng Giám mục Việt Nam.Diễn biến từ năm 1989, khi đại diện đầu tiên của giáo hoàng, hồng y Etchegaray, đến thăm Việt Nam, cho thấy tiến trình bình thường hóa bang giao từ 35 năm qua tuy chậm nhưng chắc. Tuy chưa có bình thường hóa, tức là chưa có một sứ thần của Tòa Thánh ở Việt Nam, nhưng từ năm 2007 đã có đến 5 lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đã được tiếp ở Vatican: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai chủ tịch nước Trần Đại Quang và Võ Văn Thưởng. Không có một nước Cộng Sản nào là các lãnh đạo viếng thăm Vatican nhiều như Việt Nam, cho thấy là trao đổi diễn ra ở cấp cao nhất, chứ không chỉ ở cấp bộ trưởng Ngoại Giao. Những trao đổi cũng đã có từ năm 2009 với việc thành lập nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican. Nhóm này vẫn họp mỗi năm từ 2009 và đã đạt được kết quả là bổ nhiệm một đại diện thường trực của Tòa Thánh ở Việt Nam. Đối thoại giữa hai bên, chưa bao giờ bị gián đoạn, cũng đã giúp giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục, để cho các tu sĩ linh mục được đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, cho phép Caritas, tổ chức thiện nguyện của Giáo hội, được hoạt động trở lại từ năm 2008.Có thể nói là đối thoại giữa từ ba thập niên qua đã giúp đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng đã cần rất nhiều thời gian. Câu hỏi đặt ra bây giờ là Việt Nam có thể lập quan hệ ngoại giao với Vatican trước Trung Quốc hay không? Liệu Trung Quốc có chấp nhận điều đó hay không? Cả Vatican và Việt Nam đều phải tính đến phản ứng của Trung Quốc. Hồng y Parolin, vốn vẫn rất tích cực trong các cuộc đối thoại, đã nhiều lần nói rằng mô hình của Việt Nam có thể được áp dụng cho Trung Quốc, nhất là về việc bổ nhiệm các giám mục, một vấn đề rất nhạy cảm. Điều chính yếu đối với ba tác nhân là phải duy trì đối thoại và giải quyết theo từng trường hợp một. Tôi nghĩ là sự hiện diện của Tổng giám mục Zalewski ở Hà Nội cũng sẽ giúp giải quyết vấn đề đó.Việc bình thường hóa quan hệ sẽ không diễn ra ngay trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, cũng như trong bối cảnh quan hệ giữa Vatican với Trung Quốc. Nhưng suy cho cùng thì điều đó có thật sự quan trọng không? Chủ yếu là phải làm sao cho cộng đồng tín hữu Công Giáo luôn có điều kiện thuận lợi nhất để sống đạo. Đó mới thật sự là điều quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam và Vatican.”Thật ra thì theo cái nhìn của bà Trần Thị Liên Claire, đối với chính quyền Hà Nội, quan hệ tốt với Tòa Thánh có lợi cả về mặt kinh tế, lẫn địa chính trị:"Việt Nam là một trường hợp đặc biệt trong số các quốc gia Cộng sản, nhất là ở châu Á. Chính sách tôn giáo của Việt Nam không chỉ mang tính tôn giáo mà nằm trong chính sách chung về kinh tế, địa chính trị và quân sự. Trước hết là về kinh tế. Từ năm 1998, trong đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế được ban hành dưới thời Bill Clinton, Hoa Kỳ gắn liền quan hệ kinh tế với tự do tôn giáo. Vì muốn bằng mọi giá hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, phát triển hiệp định tự do mậu dịch với Hoa Kỳ và Liên Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải nỗ lực cải thiện tự do tôn giáo vì lý do kinh tế. Những tiến bộ đó đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành quả kinh tế quan trọng. Đảng phải đạt thành công kinh tế để bảo vệ tính chính danh của mình, mục tiêu là duy trì mức tăng trưởng cao. Năm nay Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng đứng hàng thứ hai ở Đông Nam Á. Phải làm sao giữ chân các nhà đầu tư ngoại quốc, nhất là trong bối cảnh nhiều công ty đa quốc gia đã rời bỏ Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế đó, Việt Nam cần có quan hệ tốt với Vatican. Tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng mối quan hệ tốt đó là nhằm chứng tỏ Việt Nam đã có những nỗ lực về tự do tôn giáo.Lý do thứ hai là về mặt địa chính trị quốc tế. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2023-2025 và trước đó đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021, quan hệ tốt với Vatican cũng là thể hiện hình ảnh một quốc gia đáng tin cậy. Cho dù không thể so sánh Vatican với Hoa Kỳ, Liên Âu hay với các cường quốc châu Á như Ấn Độ hay Nhật Bản, nhưng Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách ngoại giao "cây tre", tức là giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc. Tòa Thánh chỉ là một nước nhỏ, nhưng là một quốc gia có tính biểu tượng cao.Lý do cuối cùng là về mặt quân sự. Theo chính sách đa phương hóa, Việt Nam phải tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông. Quan hệ tối với Vatican cũng nhằm chứng tỏ với các cường quốc phương Tây là Việt Nam vẫn chủ trương đối thoại với các cường quốc này. Việt Nam hiện vẫn cố tìm những đối trọng với láng giềng Trung Quốc hùng mạnh. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2015 và được tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng. Ngoại trưởng Antony Blinken đã đến Việt Nam chia buồn sau lễ quốc tang ông Nguyễn Phú Trọng trong tháng 7 và ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Tân chủ tịch nướcTô Lâm cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác này và đã hoan nghênh sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam vững mạnh, độc lập, tự chủ và thịnh vượng."
9/30/2024 • 11 minutes, 2 seconds
Chủ tịch nước Tô Lâm đi Hoa Kỳ: Cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ - Việt?
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã đến New York cuối tuần qua để dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Theo thông báo của Nhà Trắng, nhân djp này ông Tô Lâm sẽ gặp tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ tư 25/09/2024 bên lề Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm liệu có sẽ là cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt, trong bối cảnh vừa có những thay đổi trong thượng tầng lãnh đạo ở Hà Nội? Trong bài viết đăng trên trang mạng The Diplomat ngày 29/08/2024, nhà báo chuyên về châu Á David Hutt cho biết ông nghe nói rằng Việt Nam đã muốn chuyến đi của ông Tô Lâm ở Hoa Kỳ là chuyến thăm cấp nhà nước chính thức. Nhưng cuối cùng thì chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm chỉ là chuyến đi "làm việc" theo thông báo của bộ Ngoại Giao Việt Nam ngày 19/09. Theo David Hutt, Hà Nội có thể sẽ không quá nản lòng với một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi như vậy. Bất kỳ cuộc gặp nào giữa ông Tô Lâm với ông Biden hoặc bà Harris đều phần lớn mang tính biểu tượng, "điều quan trọng là họ gặp nhau". Trên trang mạng Geopolitical Monitor ngày 18/09/2024, nhà nghiên cứu độc lập James Borton nhận định chuyến đi của ông Tô Lâm tại Hoa Kỳ có thể sẽ giúp làm nổi bật ý nghĩa của thỏa thuận về quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước đã đạt được vào năm ngoái. Ông Borton nhắc lại tổng thống Joe Biden đã từng ca ngợi mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và cũng đã gởi lời chúc mừng tới chủ tịch nước Tô Lâm khi ông được bầu làm tổng bí thư, bày tỏ “sự lạc quan về chương mới trong sự lãnh đạo của Việt Nam”. Theo tổng thống Biden, chương mới đó là một cơ hội rất tốt để hai nước tăng cường quan hệ chiến lược và hợp tác trong những vấn đề thiết yếu như tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực, thương mại và chống biến đổi khí hậu.Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu James Borton còn lưu ý phó tổng thống Kamala Harris, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, cũng đã nhanh chóng thừa nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong khu vực với tư cách là đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Mặc dù có sự khác biệt về hệ thống chính trị và hệ tư tưởng, Hoa Kỳ đã cố xây dựng mối quan hệ dựa trên thiện chí và lòng tin hiện có giữa Hà Nội và Washington.Tuy nhiên, theo ông Borton, nhân quyền vẫn là một chủ đề nhạy cảm trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Hoa Kỳ thường nêu ra các vấn đề về tự do ngôn luận, quyền lao động và bất đồng chính kiến, trong khi Việt Nam coi đây là những vấn đề nội bộ. Các vấn đề chính trị và nhân quyền vẫn là những điểm bế tắc có thể ảnh hưởng đến bang giao lâu dài.Trước chuyến đi Hoa Kỳ của thăm của ông Tô Lâm, chính phủ Việt Nam đã trả tự do trước thời hạn cho một số nhà hoạt động hàng đầu, đó là ông Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động nhân quyền bị kết án tù 16 năm vào năm 2010 về tội " Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền" và bà Hoàng Thị Minh Hồng, nhà hoạt động môi trường đang thọ án 3 năm tù về tội "gian lận thuế" sau khi bị kết án vào năm ngoái. Hành động này có thể báo hiệu những nhượng bộ tiềm tàng của Hà Nội đối với mối quan ngại của Washignton về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Ngoài ra còn phải tính đến "yếu tố Trung Quốc". Trước khi đến Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đã chọn Trung Quốc để mở chuyến công du ngoại quốc đầu tiên với tư cách tổng bí thư đảng. Đây là chuyện bình thường theo truyền thống ngoại giao của Việt Nam với láng giềng Cộng sản phương bắc. Nhưng trong khi quan hệ Việt-Trung có vẽ rất hữu hảo, thì quan hệ Việt – Mỹ dường như đang gặp vấn đề, nhất là qua việc Washington đã từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Trả lời RFI qua điện thoại ngày 05/09/2024, tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, nhận định:"Quan hệ Việt Nam với Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc. Do vậy, việc ông Tô Lâm đi thăm Trung Quốc trước khi đi thăm Mỹ là một bước đi cần thiết để tạo tiền đề cho chuyến thăm Mỹ sắp tới, chứ hoàn toàn không thể hiện Việt Nam ngả theo bên này hay bên kia. Rõ ràng là việc Washington từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường là một bước lùi rất lớn trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, nhất là khi Việt Nam đặt việc Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường là ưu tiên trong quan hệ với Mỹ. Cần phải nói rõ: Việt Nam không được công nhận không phải là do Việt Nam không có nền kinh thế thị trường thực sự, mà là do Mỹ vẫn còn nhiều nghi kỵ đối với chính quyền Cộng sản ở Việt Nam. Trong Chiến tranh lạnh, Mỹ sẵn sàng công nhận kinh tế thị trường với các nước đồng minh châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Đài Loan, mặc dù các nước này lúc bấy giờ có nền kinh tế phi thị trường và không có công đoàn độc lập như Mỹ yêu cầu. Mỹ đã cấp quy chế kinh tế thị trường để bảo đảm là các nước này phát triển thần kỳ, nhanh chóng, dưới sự bảo hộ của Mỹ và từ đó có thể giúp Mỹ chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.Tuy nhiên,Việt Nam hiện tại không nhận được ưu ái đó, do chưa phải là đồng minh của Mỹ, cũng như tiếng nói chống Cộng sản của đại bộ phận cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn còn rất lớn. Yếu tố ý thức hệ này sẽ là vật cản lớn, song song với các sức ép từ phía Trung Quốc buộc Việt Nam giữ vị trí trung lập trong quan hệ Việt-Mỹ." Khi tỏ ra quá thân thiện với ông Tập Cận Bình nói riêng và với Bắc Kinh nói chung, thể hiện qua chuyến đi Trung Quốc vừa qua của ông Tô Lâm, liệu Hà Nội có sẽ khiến chính quyền Biden nghi ngờ về thực tâm của Việt Nam muốn phát triển hơn nữa quan hệ với Hoa Kỳ? Ngược lại, Hà Nội đã thật sự có sự tin cậy vào Washington, hay vẫn còn ngờ vực về ý đồ thật sự của Mỹ? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang cố giải đáp những câu hỏi đó:"Yếu tố ý thức hệ là một trong những nguyên nhân chính đằng sau việc Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, và như tôi đã nói thì quan hệ Việt - Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc. Nếu như so sánh yếu tố ý thức hệ trong quan hệ Việt-Trung trong chuyến thăm vừa qua của ông Tô Lâm với quan hệ Việt- Mỹ, có thể thấy là Việt Nam và Trung Quốc đều đạt được đồng thuận về việc phải duy trì ổn định chính trị ở mỗi nước. Khác với Mỹ, Trung Quốc không có nhu cầu hay lợi ích nào trong việc ủng hộ cách mạng màu hay lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, do nếu Việt Nam gặp bất ổn chính trị thì Trung Quốc cũng sẽ bị vạ lây, do là láng giềng với nhau. Trung Quốc vẫn mong muốn Việt Nam phát triển ổn định và trung lập. Trái lại thì Mỹ mặc dù trấn an Việt Nam rằng họ tôn trọng chính quyền Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên việc Mỹ vẫn ủng hộ các tổ chức đối lập với nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục khiến Hà Nội nghi ngờ mục tiêu thật sự của Mỹ. Khác với Trung Quốc, Mỹ không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp nếu cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam nổ ra, do Mỹ ở rất xa. Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường sẽ càng xác nhận với phía Việt Nam là Mỹ vẫn chưa đủ thiện chí để nâng cấp quan hệ hai nước thêm sâu rộng hơn, vì thật ra, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ hiện nay vẫn chưa có thực chất. Ông Tô Lâm thăm Mỹ với vai trò tổng bí thư sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tăng uy tín với chính giới Mỹ. Tuy vây, việc tăng uy tín đó có khiến Mỹ thôi ủng hộ các tổ chức chống nhà nước Việt Nam hay không thì chúng ta chưa thể biết rõ." Tuy vậy, theo ghi nhận của nhà nghiên cứu James Borton, chuyến thăm gần đây của bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang tại Washington ngày 09/09/2024 có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ đối tác an ninh đang phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chuyến thăm nhằm mục đích tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực như an ninh hàng hải, hiện đại hóa quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình. Chuyến thăm cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì ổn định khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi cả hai nước cùng chia sẻ mối quan tâm về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế.Nhưng với việc hai nước nay đã nâng quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, liệu Việt Nam có thể dựa vào Mỹ nhiều hơn để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang đánh giá về khả năng đó:"Nếu chúng ta nhìn cách Mỹ ủng hộ đồng minh Philippines ở Biển Đông thì sẽ thấy là Mỹ họ cũng ngại bị kéo vào tranh chấp lãnh thổ giữa đồng minh và Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc bắt nạt Philippines từ đầu năm đến nay rất nhiều, nhưng Mỹ đã không có hành động nào cụ thể để bảo vệ đồng minh. Việt Nam nên nhìn qua Philippines để hiểu là sẽ không dễ mà Mỹ can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trái lại, việc Việt Nam không phải đồng minh với Mỹ lại có lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyển trên biển, khi Trung Quốc im lặng và không bắt nạt Việt Nam, bất chấp Việt Nam đã cải tạo và bồi đắp đảo diện rộng lớn hơn Philippines rất nhiều. Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là chỉ cần Việt Nam không liên minh với Mỹ thì họ có thể nhân nhượng trên biển, để Việt Nam cũng được có lợi.Chưa kể trong tương lai sắp tới, khi cán cân sức mạnh quân sự trên Biển Đông ngày càng nghiêng về Trung Quốc, Mỹ sẽ càng ngại và càng khó mà hỗ trợ đồng minh và đối tác trong khu vực. Chỉ cần nhìn qua Philippines, Việt Nam nên thấy là quan hệ đồng minh với Mỹ sẽ không giải quyết được cả các vấn đề an ninh nổi cộm hiện nay."Trong bài viết trên trang Geopolitical Monitor, nhà nghiên cứu James Borton nhấn mạnh kết quả cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2024 sẽ có tác động lớn đến quan hệ quốc tế của Mỹ, ảnh hưởng đến chính sách thuế quan và các hiệp định thương mại. Nếu phó tổng thống Harris đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, quan hệ Mỹ-Việt chắc là sẽ không có thay đổi đáng kể. Trong khi đó, dưới thời cựu tổng thống Donald Trump, Washington đã rút ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương và thi hành một chính sách thiên về chống toàn cầu hóa và chống tự do mậu dịch. Nếu Donald Trump trở lại Nhà Trắng, quan hệ Mỹ - Việt có sẽ thay đổi nhiều? Liệu chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam, giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc đối địch, sẽ còn tác dụng đối với chính quyền Trump 2 hay không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhận định:"Hiện hãy còn quá sớm để đánh giá được chính sách đối ngoại của chính quyền Donald Trump nhiệm kỳ 2 đối với Việt Nam. Nhưng có một điểm khá là bất ngờ đối với nhiều học giả, đó là nếu nhìn vào chính sách ngoại giao của tổng thống Trump nghiệm kỳ thứ nhất, thì ông cũng không đi ngược lại những truyền thống ngoại giao của Mỹ đến mức trầm trọng như nhiều người dự đoán. Trong giai đoạn 2017-2021, chính quyền tổng thống Trump vẫn rất sẵn lòng tôn trọng chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam và cũng rất sẵn sàng tăng cường hợp tác quốc phòng với giữa hai nước. vẫn được chính quyền Trump hợp tác và ủng hộ . Do vậy, theo tôi, chính sách ngoại giao « cây tre » của Việt Nam vẫn sẽ hiệu quả đối với chính quyền Trump 2.Tuy vậy, nếu quan hệ Mỹ-Trung trở nên trầm trọng hơn dưới nhiệm kỳ 2 của tổng thống Trump, rõ ràng là dư địa để Việt Nam có thể sử dụng ngoại giao "cây tre" nhằm cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc sẽ ngày càng hẹp lại."
9/23/2024 • 9 minutes, 28 seconds
Việt Nam mua vũ khí lớn của Mỹ: Bước ngoặt trong quan hệ quốc phòng song phương?
Mỹ sẽ tặng Việt Nam tàu tuần duyên thứ ba từ nay đến cuối năm 2024. Washington được cho là đang đàm phán bán máy bay vận tải C-130J cho Hà Nội. Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Năm thăm Mỹ đúng kỉ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ song phương lên mức cao nhất - Đối tác chiến lược toàn diện. “Sự gia tăng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong suốt năm qua” đã được bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin nhấn mạnh khi tiếp đồng nhiệm Phan Văn Giang ngày 09/09. Tất cả những sự kiện này đánh dấu “giai đoạn mới trong hợp tác hữu nghị” giữa hai nước, cho đến nay “vẫn suôn sẻ và đi theo hướng mà cả hai nước đều mong muốn”. Để hiểu hơn về những chuyển biến mới trong quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đặc biệt là mức độ tin cậy nhau, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.RFI : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Có thể hiểu đây là một dấu hiệu mới cho việc thắt chặt quan hệ quốc phòng và an ninh song phương ? Nguyễn Thế Phương : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Mỹ đợt này hơi đặc biệt tại vì chuyến thăm này khá dài, tầm 4-5 ngày, cho nên lịch trình sẽ dầy và tập trung nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, chưa rõ cụ thể chương trình nghị sự của bộ trưởng Giang nhưng chuyến thăm này đánh dấu bước đi tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vì tháng 9 này kỉ niệm đúng một năm hai nước nâng cấp quan hệ. Đọc thêm : Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngạiỞ đây cần nhấn mạnh đến một số điểm. Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ ở thời điểm hiện tại thường vẫn được nhấn mạnh đến quan hệ kinh tế và thương mại, còn quan hệ an ninh và quốc phòng thường được đặt bên dưới. Chuyến thăm Mỹ lần này của bộ trưởng Giang phần nào đó sẽ giúp cho Việt Nam hiểu được Mỹ sẽ muốn gì trong mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai bên trong tương lai. Và cũng để cho phía Mỹ hiểu rõ hơn là Việt Nam thực sự muốn gì ở Mỹ, đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam cải thiện một số năng lực, nhất là năng lực hàng hải, hoặc những chuyển động quốc phòng sâu sắc hơn trong tương lai cho xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đây là điểm mấu chốt trong chuyến thăm của bộ trưởng Giang.Ngoài ra, có thể đây là chuyến thăm mở đường cho chuyến thăm của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sắp tới. Đây cũng là chuyến thăm để Việt Nam dò chính sách của Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh chỉ còn hai tháng nữa là bầu cử tổng thống.RFI : Năm 2023 từng có thông tin Việt Nam và Mỹ bàn khả năng mua sắm chiến đấu cơ F-16 nhưng đàm phán bị dừng lại. Hiện tại có thông tin Mỹ đang thảo luận với Việt Nam về việc bán máy bay vận tải quân sự Lockheed Martin C-130J Hercules cho Hà Nội. Tại sao lại có sự thay đổi này ? Liệu việc mua máy bay, dù là máy bay vận tải, sẽ là một bước ngoặt cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ?Nguyễn Thế Phương : Thông tin Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc mua các loại vũ khí, khí tài của Mỹ, đặc biệt là F-16, đã xuất hiện từ cách đây 2, 3 năm chứ không phải là một vấn đề mới. Nhìn chung, nếu như Việt Nam mua vũ khí, khí tài của Mỹ thì đây cũng sẽ là một bước ngoặt. Đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được nâng lên một tầm mức mới, bởi vì để Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thì mức độ lòng tin chiến lược trong an ninh quốc phòng giữa hai bên, đặc biệt là từ phía Việt Nam đối với Mỹ, đã được nâng lên một tầm mức nào đó rồi.Việt Nam cũng đã chuẩn bị từ trước cho những quyết định mua sắm đó. Thứ nhất, Việt Nam gửi một số sĩ quan không quân, những đội hậu cần qua Mỹ để huấn luyện và học tập từ cách đây 2, 3 năm. Thứ hai, Việt Nam vừa mới khai trương một sân bay ở Phan Thiết. Người ta cho rằng sân bay này được dành cho việc triển khai một số loại máy bay huấn luyện sẽ mua của Mỹ trong tương lai. Có thể thấy Việt Nam đã chuẩn bị hết về nhân lực, cơ sở hạ tầng cho vấn đề mua sắm trang thiết bị vũ khí mà ở đây là các loại máy bay Mỹ. Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130Thông tin Việt Nam mua máy bay F-16 của Mỹ bị dừng lại cũng không phải là điều quá bất ngờ: Thứ nhất, F-16 là một loại vũ khí mang tính tấn công mà ở thời điểm hiện tại, nếu Việt Nam mua của Mỹ thì sẽ rất nhạy cảm, đặc biệt là đặt trong mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác, mang tính kỹ thuật. Liệu hai bên có sẽ trao đổi vấn đề mang tính kỹ thuật về vũ khí, về bảo dưỡng, bảo trì không ? Đây cũng là điểm “nhạy cảm”. Việc Mỹ có cho phép mua vũ khí đi kèm hay không cũng là một chuyện cần bàn thảo sâu hơn trong tương lai. Hiện tại, những vấn đề đó dường như vẫn là những khúc mắc mà hai bên chưa giải quyết được.Trong khi đó C-130 chỉ là một loại máy bay vận tải phi tác chiến. Cho nên việc Việt Nam có khả năng mua C-130 cũng có thể được giải thích theo hướng là sẽ giúp Việt Nam cải thiện năng lực phòng thủ, năng lực không vận, vốn là năng lực mà Việt Nam vẫn còn yếu. C-130 mang tính phòng thủ, không mang tính tấn công, bớt tính nhạy cảm và một phần nào đó cũng giúp cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh thâm hụt thương mại hiện nay nghiêng về Việt Nam quá lớn. Cho nên, mua sắm thêm vũ khí cũng là cách để Việt Nam gửi thông điệp rằng “chúng tôi muốn mở rộng hơn nữa hợp tác, đặc biệt là về thương mại”. Và trao đổi thương mại quốc phòng là một điểm mà Việt Nam đã và đang cân nhắc.RFI : Việc Nga, nước cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, bị cấm vận và phải dồn toàn bộ nguồn lực quốc phòng cho chiến tranh ở Ukraina buộc Hà Nội phải tăng tốc đa dạng hóa nguồn cung, trong số này có vũ khí hệ phương Tây. Tuy nhiên, những nước này có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vũ khí được bán. Vấn đề này sẽ tác động đến quá trình hợp tác với Việt Nam như thế nào ? Yếu tố “hoa hồng”, vẫn được các chuyên gia, nhà quan sát về quân sự Việt Nam nêu lên, có phải là một trở ngại khác ? Nguyễn Thế Phương : Có hai yếu tố gây trở ngại chính. Thứ nhất là yếu tố mang tính hệ thống vì toàn bộ chu trình ra quyết định mua vũ khí nào và quy trình huấn luyện, bảo dưỡng bảo trì thì từ trước đến này, hệ thống, cấu trúc của Việt Nam luôn hướng về phía Nga. Cho nên hiện giờ, muốn đổi sang một hệ phương Tây khác thì toàn bộ quy trình đó phải được điều chỉnh và thay đổi. Và quá trình này tốn rất nhiều thời gian.Thứ hai là vấn đề mang tính chính trị bởi vì tư duy quốc phòng, an ninh của Việt Nam hiện tại vẫn có một yếu tố nghi ngại phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng, cũng như các đồng minh của Mỹ. Đây là điểm có khả năng làm chậm lại quá trình tương tác giữa Việt Nam và các quốc gia phương Tây, đặc biệt là liên quan đến mua sắm vũ khí quốc phòng. Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?Điểm thứ ba, rất cốt lõi, liên quan đến tài chính. Nguồn lực của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tài chính trong quá trình hiện đại hóa, rõ ràng là không lớn cho nên cũng phải “liệu cơm gắp mắm”. Tất cả những yếu tố đó, khi Việt Nam muốn xác định mua sắm, đều phải đặt lên bàn cân để xem mua của ai, được lợi gì và bất lợi gì, đặc biệt là với Mỹ. Như chị đề cập tới quy trình và đặc trưng của quy trình mua sắm vũ khí, khí tài, thì “văn hóa” giữa hai bên Mỹ-Việt Nam và Việt Nam với phương Tây là khác nhau. Thực ra, sự khác nhau này là có thể điều chỉnh được.Nhưng như tôi đã đề cập, quá trình điều chỉnh văn hóa mua sắm và chính sách như này cần phải có nhiều thời gian và dựa trên niềm tin chính trị giữa hai bên, nhu cầu của Việt Nam và chính sách, cũng như chiến lược quốc phòng của Việt Nam hiện tại, chứ không hẳn là vũ khí phương Tây là tốt và cũng không hẳn là ở thời điểm hiện tại, Nga đang gặp khó khăn và Việt Nam không mua của Nga.RFI : Phát biểu tại một sự kiện của Canergie, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từ năm 2014-2017 cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam “thực tế”, “có rất nhiều điều có thể thực hiện một cách thực dụng giúp tăng cường quan hệ đối tác” Việt-Mỹ, kể cả trong lĩnh vực an ninh, dù không cần liên minh hay căn cứ. Hai nước sẽ tính đến những hướng phát triển nào ? Liệu Washington cần tiếp tục kiên trì vì Hà Nội cần thời gian nếu nhìn vào sự cân bằng với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Trong chính sách đối ngoại và chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam dù sao cũng đóng một vai trò tương đối quan trọng trong tầm nhìn của Mỹ ở khu vực. Cho nên Mỹ sẽ cần phải có một mức độ kiên trì nhất định khi tương tác với các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là các lãnh đạo bên quân đội. Đọc thêm : Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển ĐôngĐối với Việt Nam, niềm tin chiến lược hiện tại giữa hai bên đã được cải thiện, nhưng không đi quá nhanh. Nhìn vào Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, vấn đề mang tính diễn biến hòa bình, những vấn đề mang tính lật đổ hoặc đảm bảo nguyên chế độ vẫn là vấn đề an ninh hàng đầu. Khi nói đến những vấn đề đó, phương Tây và Mỹ là những “đối tượng rất lớn”, theo đúng cách dùng của ngôn ngữ chiến lược Việt Nam. Cho nên, để có mối quan hệ song phương bền vững và lâu dài với Việt Nam, Mỹ cần có sự kiên trì nhất định khi làm việc với Việt Nam, đặc biệt là trong những vấn đề mang tính nhạy cảm như an ninh và quốc phòng.Ngoài ra, theo lời đại sứ Ted Osius, về vấn đề liên quan đến “thực tế”, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã “thực tế” và “thực dụng” hơn rất nhiều so với các đây 20-30 năm, đặc biệt là trong giai đoạn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ. Đó là giai đoạn vẫn còn nghi kị rất nhiều. Hiện tại, do sự chuyển dịch tư duy về chiến lược đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu, để phát triển kinh tế, các nhà lãnh đạo phải “thực dụng” hơn nhưng không có nghĩa là họ không nghi ngờ, không phòng thủ trước những mối quan hệ với Mỹ và phương Tây. Phòng thủ ở đây không chỉ về mặt khác biệt và quan điểm chính trị, mà còn là sự đề phòng trong mối cân bằng ngoại giao với Trung Quốc. Đó là sự cân bằng giữa các nước lớn. Đọc thêm : Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển ĐôngCho nên, nói theo đại sứ Ted Osius cũng đúng, nhưng phải đặt trong toàn bộ bối cảnh tư duy chiến lược của Việt Nam hiện tại : Có sự cân bằng giữa các nước láng giềng, có yếu tố về mặt chính trị, một chút ý thức hệ và cũng có yếu tố thực dụng trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ thì sẽ mở rộng hơn nữa khả năng của Việt Nam về mặt thương mại, tài chính và công nghệ. Đó là những lĩnh vực Việt Nam đang muốn đầu tư cho việc duy trì khả năng phát triển kinh tế trong tương lai.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
9/16/2024 • 10 minutes, 12 seconds
Trung Quốc cần một Việt Nam ổn định lãnh đạo, cân bằng giữa các cường quốc
Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre". Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”. Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chứcThứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam. Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý. Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre” RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm. Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
9/9/2024 • 9 minutes, 58 seconds
Pháp hỗ trợ Việt Nam phát triển hydrogen xanh
Với nguồn tài nguyên biển phong phú cùng điều kiện nắng và gió thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất hydrogen xanh hàng đầu ở châu Á, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhiên liệu hóa thạch. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đến sự trợ giúp của các nước phát triển, trong đó có Pháp. Hydrogen xanh là một loại hydrogen được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời và gió. Khác với hydro "xám", quá trình sản xuất hydro xanh sử dụng điện năng để điện phân nước, tách nước thành hydro xanh và oxygen, không phát thải CO2 và các chất ô nhiễm khác. Các lợi ích về môi trường và tính linh hoạt của nó trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, công nghiệp và sản xuất điện khiến hydro xanh ngày càng trở nên quan trọng khi các quốc gia nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa cacbon, như mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết cho năm 2050Trả lời RFI Việt ngữ từ Jakarta ngày 26/08/2024, ông Mathieu Gaze, giám đốc đặc trách khu vực châu Á của công ty Hydrogène de France ( HDF Energy ), một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen, nhận định về tiềm năng phát triển hydrogen xanh của Việt Nam:“Hydrogen có thể được sản xuất từ những nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời hoặc gió. Việt Nam có những tiềm năng rất lớn về hai loại năng lượng này, nên cũng có tiềm năng lớn về hydrogen xanh, mà công ty HDF Energy của chúng tôi cố gắng giúp khai thác. Nói chung, tiềm năng về hydrogen là rất lớn trong lĩnh vực hóa dầu, cụ thể là tập đoàn Petrovietnam với một số nhà máy lọc dầu của công ty này, hay các nhà máy dùng hydrogen để sản xuất một số sản phẩm như phân bón.Hiện nay, hydrogen xám chủ yếu được sản xuất từ khí đốt. Nhưng trong tương lai, nhờ tiềm năng về năng lượng tái tạo, ta có thể sản xuất hydrogen xanh để phi cacbon hóa những ngành như ngành hóa dầu, hay ngành giao thông, như xe lửa. Chẳng hạn như Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các đầu máy chạy bằng diesel. Hydrogen có thể đóng một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ của một số đầu máy, đồng thời góp phần phi cacbon hóa ngành này.Về phần công ty HDF Energy, trong giai đoạn đầu, chúng tôi cố gắng giúp phi cacbon hóa ngành điện. Việt Nam có những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn như các đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi mà hydrogen có thể được dùng để tích trữ một cách ổn định các nguồn năng lượng tái tạo. Cụ thể, nguồn điện từ năng lượng Mặt trời hay năng lượng gió có thể không ổn định, vì nắng lúc có lúc không, gió thì lúc mạnh lúc yếu. Hydrogen có thể được sử dụng để tích trữ lượng điện đó và cung cấp cho mạng lưới điện những khi thiếu nắng và gió.” Với những tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng Mặt Trời, Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển hydrogen xanh đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể là sản xuất từ 100.000 đến 500.000 tấn hydrogen xanh từ đây đến năm 2030, để sau đó đạt được sản lượng từ 10 đến 20 triệu tấn từ đây đến năm 2050. Chính phủ Việt Nam hiện đang tìm các nhà đầu tư ngoại quốc có thể hỗ trợ tài chính cho việc sản xuất hydrogen xanh qua nhiều nguồn năng lượng khác nhau, không chỉ có năng lượng gió, năng lượng Mặt trời, mà cả than đá, dầu hỏa và khí đốt. Theo dự báo của chính phủ Hà Nội, hydrogen xanh sẽ đáp ứng 10% nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam từ đây đến năm 2050. Ông Mathieu Gaze, giám đốc châu Á của HDF Energy nhận định về mục tiêu này:“Tôi nghĩ là có thể đạt được mục tiêu đó, vấn đề chủ yếu chỉ là thời gian. Nhưng do có tiềm năng rất lớn về điện Mặt trời và điện gió, do nhu cầu phải phi cacbon hóa đất nước, do phải đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng cùng với đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, hydrogen có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đó. Tỷ lệ 10% theo tôi là một mục tiêu khả thi”.Pháp là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen xanh tính theo số lượng sáng chế, nghiên cứu, phát triển, sản xuất trang thiết bị và doanh nghiệp ở mọi quy mô. Công ty Pháp HDF Energy đã hợp tác với Việt Nam từ vài năm nay trở lại đây. Mới đây, công ty này đã đưa vào hoạt động một nhà máy sản xuất pin nhiên liệu ( fuel cell ) tại vùng ngoại ô thành phố Bordeaux.Giám đốc châu Á của HDF Energy Mathieu Gaze nêu bật những khả năng hợp tác giữa Pháp với Việt Nam về hydrogen xanh:“Nói chung, nước Pháp có những công ty hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, như Tập đoàn Điện lực Pháp EDF, nếu tôi không lầm thì đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm qua, hoặc là những công ty khác cũng có thể có tham vọng đầu tư vào Việt Nam. Như vậy nước Pháp có thể đóng vai trò quan trọng với khả năng đầu tư, kỹ thuật, để hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là về thủy điện hay về điện hạt nhân.Riêng công ty HDF sẽ tập trung vào những dự án mà chúng tôi có thể chuyển giao các kỹ năng quan trọng cho phía Việt Nam, khác với những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, hay một số đảo, nơi mà một phần của hệ thống điện phụ thuộc nhiều vào các máy phát điện chạy bằng diesel”. Có mặt tại Việt Nam từ năm 2022, HDF Energy đã triển khai nhiều dự án hợp tác với các Bộ Công Thương, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tập đoàn Đường sắt và Tập đoàn Điện lực Quốc gia. Công ty cũng có ký kết, làm việc, hoặc trao đổi phát triển các dự án ở nhiều tỉnh thành như Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, là những địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, điện gió trên đất liền, hay điện Mặt trời.Đây cũng chính là những nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen "xanh" phục vụ ngành giao thông vận tải. Đặc biệt, HDF Energy đã làm việc với Công ty Đường sắt Việt Nam để nghiên cứu cơ hội chuyển đổi gần 200 động cơ diesel cũ đã vận hành từ cách đây hàng chục năm, chuyển sang sử dụng hydrogen. Về dự án này, ông Mathieu Gaze cho biết:“Nói chung chúng tôi có tham vọng hỗ trợ ngành đường sắt để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của ngành này tại Pháp và tại nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi thấy nhiều đầu máy xe lửa còn phụ thuộc vào động cơ diesel, vì cần phải đầu tư rất nhiều cho việc điện hóa các tuyến xe lửa. Một số tuyến có nhu cầu rất hạn chế hoặc rất khó lấy lại vốn khi đầu tư vào. Hydrogen sẽ là một giải pháp đơn giản để phi cacbon hóa các đầu máy đó bằng cách, nói theo tiếng Anh, retrofit chúng, thay thế động cơ diesel bằng động cơ chạy điện. Vì lý do bảo mật, tôi không thể nói chi tiết hơn, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu các dữ liệu để xác nhận tiềm năng đó tại một số nơi ở Việt Nam.”Đối với ông Mathieu Gaze, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay đã đủ thuận lợi cho việc phát triển hydrogen xanh: “Đây vẫn là những vấn đề rất phức tạp ở tất cả các nước mà các nhà công nghiệp, các nhà đầu tư vẫn trông chờ một sự yểm trợ về mặt chính trị, thể hiện qua một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các dự án. Cá nhân tôi thì nghĩ rằng dù trong khuôn khổ pháp lý như thế nào, các nhà phát triển dự án, các nhà đầu tư, các nhà công nghiệp cũng nên tỏ ra thực dụng. Nếu dự án được xem là đáng giá về mặt kinh tế, về mặt kỹ thuật, tôi có thể chắc chắn là dự án đó sẽ được sự hỗ trợ của chính quyền, dù ở cấp quốc gia, với bộ Công Thương hay ở cấp địa phương với chính quyền các tỉnh.Tôi nghĩ là các quy định luật lệ hiện nay ở Việt Nam đủ để chúng tôi có thể đề xuất các ý tưởng, các dự án và thực hiện các ý tưởng, dự án đó. Nếu trong tương lai các nhà lập pháp hỗ trợ mạnh hơn đối với các năng lượng tái tạo thì càng tốt”.
9/2/2024 • 8 minutes, 42 seconds
Chống tham nhũng và độc quyền công nghệ Trung Quốc: Hai hạn chế đối với khai thác đất hiếm Việt Nam
Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ? Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.RFI : Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưng dường như hoạt động khai thác không được tiến triển. Những nguyên nhân, yếu tố nào có thể giải thích cho tình trạng này?Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.RFI : Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ? Éric Mottet : Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.
8/26/2024 • 9 minutes, 36 seconds
San hô ở Việt Nam trước thảm họa tẩy trắng hàng loạt
Theo các cơ quan bảo tồn sinh vật biển, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều loài san hô đa dạng nhất thế giới. Tuy nhiên, hệ sinh thái rất quan trọng này đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng, chất lượng, do tác động từ các hoạt động của con người ( du lịch, ô nhiễm biển ), cũng như do tác động của biến đổi khí hậu. Tác động của biến đổi khí hậu đáng lo ngại hơn cả là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt các rạn san hô. Vùng biển Việt Nam hiện đang tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun (Khánh Hòa). Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tổng cục Biển đảo Việt Nam, hiện Việt Nam chỉ còn 1% trong số 1.300km2 rạn san hô dọc bờ biển đang trong tình trạng rất tốt; 26% các rạn san hô trong điều kiện tốt; 41% các rạn san hô trung bình, còn lại 31% là các rạn san hô nghèo.Ðiều đáng lo ngại đó là hiện có 96% các rạn san hô trên khắp vùng biển cả nước đang hứng chịu tác động từ các hoạt động khai thác của con người, trong đó gần 75% các rạn có mức độ rủi ro cao và rất cao bởi tình trạng khai thác mang tính hủy diệt. Đi cùng với sự suy thoái của san hô là sự biến mất của nhiều loài sinh vật biển quý.Lê Chiến, nhà sáng lập Trung tâm Cứu hộ Sinh vật biển SASA, một tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam chuyên giải cứu các sinh vật biển và hồi sinh các rạn san hô bị hư hại tại bờ biển miền trung Việt Nam, cho biết về hiện trạng của san hô Việt Nam, đặc biệt là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ( mass bleaching ): “Mass bleaching, tẩy trắng hàng loạt, có nghĩa là tẩy trắng trên một diện rất rộng trên một số loài, đặc biệt là loài tạo dạng quan trọng, những loài có mật độ rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành rạn tại Việt Nam, cũng như tại châu Á-Thái Bình Dương nói chung.Hiện tại rất nhiều nơi ở Việt Nam, san hô đã bị tẩy trắng hàng loạt. Đấy chính là nguy cơ lớn nhất, chứ còn bây giờ vấn đề phá hoại bởi du lịch không còn là trọng tâm nữa. Hiện chúng tôi ghi nhận hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ở một số tỉnh Nam Trung Bộ như Ninh Thuận, Bình Thuận và vịnh ở Côn Đảo, vịnh Thái Lan, Phú Quốc. Đó là ghi nhận trong khả năng của chúng tôi. Có thể có những tỉnh khác cũng bị như vậy, nhưng chúng tôi chưa có điều kiện để đi khảo sát. Rất may là ở khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ thì chưa thấy bị ảnh hưởng, nhưng nhiệt độ nước biển thì hiện cũng khá là cao.” Cũng theo anh Lê Chiến, về mặt lý thuyết, có những phương pháp giúp đảo ngược tình trạng tẩy trắng hàng loạt san hô ở Việt Nam, nhưng trên thực tế không đơn giản chút nào: “Trong những phương pháp tái tạo san hô, có việc gây dựng vườn ươm con giống san hô ( coral garden ), nếu không thì chỉ là transplantation, tức là di chuyển san hô từ điểm A sang điểm B. Giống như trên hai cánh rừng, một cánh rừng trọc và một cánh rừng xanh. Nếu chúng ta lấy cây bên rừng xanh trồng bên rừng trọc thì hai bên sẽ trở lại một bên là rừng xanh, một bên là rừng trọc. Nếu không có vườn ươm thì sẽ không có con giống để cung cấp. Vườn ươm đó có nhiều yếu tố, thứ nhất là khai thác con giống. Hai là người ta có thể dùng nhiều phương pháp để khiến cho san hô stress liên tục để kích thích nó thích nghi với biến đổi khí hậu toàn cầu. Trên lý thuyết là như vậy, nhưng có rất ít nơi làm được việc đó.Chúng ta có thể dùng công nghệ, kỹ thuật và sức người để đảo ngược xu thế, nhưng đó là một việc rất là khó. Trong đợt tẩy trắng san hô vừa rồi, nước Úc đã gánh chịu một cảnh vô cùng thảm hại, khi hàng trăm ngàn km vuông bị tẩy trắng. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có thể thích ứng được, nhưng thực tế rất khó mà triển khai. Hiện tại chúng tôi cũng đang làm một số mô hình thí điểm cứu hộ san hô bị tẩy trắng, cũng như giúp cho san hô vượt qua được mùa “heat stress”, tức là giai đoạn mà nước biển nóng lên từ 2 tuần đến 1 tháng hoặc 2 tháng. Chúng ta có thể gây dựng những vườn ươm hoặc di dời những vườn ươm. Về mặt kỹ thuật thì có thể, nhưng trên thực tế, trở ngại lớn nhất là kinh phí. Kinh phí cho việc này quá lớn, thậm chí nước Úc còn không làm được, Việt Nam lại càng khó làm. Trên lý thuyết, chúng ta có thể di dời toàn bộ rạn san hô đến một địa điểm khác để dưỡng chúng, qua thời điểm nước nóng lên thì chúng ta tái cấy vào khu vực đã dời đi. Nhưng để di chuyển 1 km2, 5 km2, 10 km2 hay hàng trăm km2 là rất khó. Trên thế giới hiện giờ người ta đã lập ra các vườn ươm. Nếu đó là vườn ươm với quy mô nhỏ thì có thể di dời được đến khu vực biển mát hơn hoặc di dời vào khu vực bễ nhân tạo và dùng những thiết bị, những công cụ làm mát nước, duy trì nhiệt độ nước ổn định”. Trước quy mô quá lớn tình trạng san hô bị suy thoái, những tổ chức phi chính phủ như SASA từ nhiều năm qua đã nỗ lực tham gia tái tạo các rạn san hô bị suy thoái, nhưng phạm vi hoạt động của họ rất giới hạn, theo lời anh Lê Chiến:“Công việc chính của chúng tôi vẫn là tái tạo các rạn san hô. Về kinh phí thì chúng tôi là một tổ chức nghiên cứu và hoạt động thực hành khoa học một cách độc lập, không có tư cách pháp nhân để nhận tài trợ hay hỗ trợ. Toàn bộ kinh phí là do chúng tôi tự chi trả.Hiện chúng tôi đang làm tại Đà Nẵng và Phú Quốc. Như tôi đã nói ở trên, rất may là miền Trung Trung Bộ, bao gồm cả Đà Nẵng, Quảng Bình…, chưa bị ảnh hưởng bởi hiện tượng tẩy trắng hàng loạt. Chúng tôi đã hoạt động ở Đà Nẵng từ 10 năm rồi, còn ở Phú Quốc thì chúng tôi mới triển khai được khoảng hơn 1 năm. Vấn đề ở đây là không phải nơi nào bị thiệt hại thì chúng tôi mới đến đó, hay là nơi nào cần thì chúng tôi đến, mà chúng tôi đi được ở đâu thì chúng tôi đi. Nơi nào cũng cần cả. Rạn san hô trên thế giới thì đang ở mức độ suy thoái từ 40 đến 60% một năm. Ở đâu chúng ta cũng đều phải làm cả!”Ngay cả việc phục hồi san hô bị tác động của ô nhiễm biển cũng không phải là đơn giản. Theo báo chí trong nước, 8 năm sau sự cố môi trường ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển miền Trung Việt Nam, dự án phục hồi rạn san hô ở vùng biển này vẫn chưa được triển khai xong. Sự cố môi trường biển miền Trung xảy ra vào năm 2016 do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra đã làm cho hệ động thực vật biển 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các rạn san hô nhiều nơi bị chết, suy thoái mạnh, cần phải được nhanh chóng tái tạo.Dự án phục hồi, tái tạo hệ sinh thái thủy sinh và nguồn lợi thủy sản, mặc dù theo quy định phải hoàn thành vào tháng 12/2022, nhưng nay vẫn chưa triển khai thi công. Mãi đến tháng 4/2024, tỉnh Thừa Thiên - Huế mới được thủ tướng phê duyệt cấp 170 tỉ đồng để triển khai dự án thả rạn san hô nhân tạo và trồng, phục hồi rạn san hô. Thật ra đây là lần đầu tỉnh này thực hiện dự án như vậy cho nên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tìm ra đủ nguồn giống để trồng và phục hồi san hô.Do phương tiện và khả năng còn hạn chế, Việt Nam phải cần đến sự hỗ trợ của quốc tế, chẳng hạn như của Úc, quốc gia cũng đang hứng chịu thảm nạn san hô bị tẩy trắng hàng loạt. Úc vốn nổi tiếng với rạn san hô Great Barrier, hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm khoảng 3.000 rạn san hô riêng rẽ và vịnh san hô. Do đó, các chuyên gia nước này có rất nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo vệ rạn san hô trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, đánh bắt cá quá mức.Theo báo chí trong nước vào tháng 04/2024, các chuyên gia Úc sẽ đào tạo, hướng dẫn cho 20 nhà khoa học và cán bộ các khu bảo tồn biển Việt Nam nâng cao năng lực, kỹ năng giám sát và quản lý rạn san hô bằng cách ứng dụng công nghệ mới ReefCloud và thiết bị ReefScan. ReefScan là một hệ thống camera dùng để nắm bắt hiện trạng rạn san hô để bảo tồn chúng một cách hiệu quả hơn. Còn ReefCloud là bộ cơ sở dữ liệu lớn dạng mở để quản lý các dữ liệu về rạn san hô.Không chỉ đối với Việt Nam mà đối với cả thế giới, việc phục hồi, bảo tồn ngày càng cấp thiết, do tình trạng san hô suy thoái, nhất là hiện tượng san hộ bị tẩy trắng hàng loạt, đã trở nên hết sức nghiêm trọng, sẽ ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, theo cảnh báo của những nhà nghiên cứu như anh Lê Chiến: “Trong vòng 50 năm qua, chúng ta đã đẩy những rạn san hô của chúng ta đến bờ vực suy thoái nghiêm trọng. Nhiều hệ quả có thể xảy ra. Nó chỉ mới là giả thuyết khoa học, chưa xảy ra, nhưng chúng ta có thể dùng các luận cứ khoa học, dẫn chứng khoa học để có thể đưa ra một số dự đoán. San hô cung cấp sự sống và dung dưỡng sự sống cho từ 25% đến 40% sinh vật từ đáy đại dương. Khi không còn san hô nữa thì 25% cho đến 40% sinh vật này có thể biến mất và điều này sẽ làm sụp đổ toàn bộ mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương. Về sự sụp mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương, lịch sử của hành tinh này đã trải qua 5 lần đại tuyệt chủng. Nó xuất phát từ nhiều lý do, nhưng một trong những hiện tượng đó là sụp đổ chuỗi thức ăn, dẫn đến đại tuyệt chủng dưới đáy đại dương. Đại dương của chúng ta không còn là một cái máy tạo oxy nữa, không còn là bộ phận quan trọng trong chu trình carbon của hành tinh này nữa, mà có thể nó trở thành một bể chứa tảo độc. Rạn san hô biến mất là một điều vô cùng nghiêm trọng cho cả nhân loại, chứ không chỉ vấn đề kinh tế của người này, người kia hay nước này, nước kia. Đại dương không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn, mà nó còn là một cỗ máy sinh học lớn nhất trên hành tinh này để vận hành khí hậu. Nếu không có chu trình carbon dựa trên mạng lưới thức ăn vô cùng phức tạp của các đại dương, thì các đại dương sẽ trở thành một cỗ máy tạo ra CO2 và từ đấy thì nhiệt độ của bầu khí quyển sẽ tăng lên rất là nhiều, Trái đất sẽ nóng lên rất nhanh. Sau quá trình nóng lên rất nhanh như vậy là quá trình dẫn đến kỷ băng hà. Đấy là quy trình gần như là bất biến trong các kỳ đại tuyệt chủng đã từng xảy ra.”
8/19/2024 • 9 minutes, 2 seconds
Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre”
Chính sách phi liên kết không phải là hoàn toàn mới nhưng được cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong “ngoại giao cây tre”. Một “di sản” được ông cố vun đắp từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc (14/12/2021) và được coi là một “trường phái đối ngoại” của Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà tại Singapore, trong một bài viết đăng ngày 24/10/2023 trên trang Fulcrum (1), nhận định “mặc dù thiếu nội dung thực chất, nhưng khái niệm “ngoại giao tre Việt Nam” đã phát triển song song với sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông Trọng khi ông củng cố vị trí nổi bật trong hệ thống lãnh đạo tập thể của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông cũng phụ thuộc vào cơ may địa-chính trị của Việt Nam, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều cạnh tranh để kéo Việt Nam về phía họ. Người ta có thể lập luận rằng “ngoại giao cây tre” của ông Trọng xuất phát từ sự tình cờ về mặt địa chính trị của Việt Nam hơn là từ sự đổi mới chính sách”.Còn trong một bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 06/06/2024, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý “khái niệm (“ngoại giao cây tre”) là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước” (2). Tuy nhiên, sau 14 năm, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổng bí thư mới. Đại tướng Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi lần lượt giữ chức chủ tịch nước và tổng bí thư, ít nhất cho đến Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV, dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026.Di sản “ngoại giao cây tre” sẽ được tiếp tục như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Vũ Khang, chuyên về an ninh Đông Á, trường Đại học Boston (Boston Collegue), Hoa Kỳ.RFI : Đảng Cộng Sản Việt Nam bước sang trang mới sau 14 năm lãnh đạo của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ có thay đổi như thế nào với sự kiện này ? Chiến lược “ngoại giao cây tre” sẽ vẫn được tiếp tục ?Vũ Khang : Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ không có thay đổi gì dưới thời của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm vì có hai lý do chính.Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có mục tiêu đầu tiên, đó chính là kiềm chế và trấn an được Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc vẫn đang ổn định nên Việt Nam không có nhu cầu để phải có những thay đổi lớn trong ngoại giao. Nếu Việt Nam có những hành động thay đổi lớn trong chính sách “ngoại giao cây tre”, nhất là Việt Nam muốn mở rộng quan hệ ngoại giao đối với những nước “thù địch” với Trung Quốc thì điều đó có thể khiến Trung Quốc phật lòng. Và trong trường hợp đấy, Việt Nam sẽ phải hứng chịu những đáp trả không cần thiết từ Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc hoàn toàn không có những lý do gì để hạ quan hệ ngoại giao song phương. Cho nên Hà Nội không có lý do gì để mà thay đổi đường lối “ngoại giao cây tre” hiện giờ. Đọc thêm : 2023: Năm thành công của "ngoại giao cây tre" Việt NamLý do thứ hai, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ xưa đến nay vẫn do Bộ Chính Trị quyết định chứ không phải là do một cá nhân, bất kể cá nhân đấy có là tổng bí thư hay là chủ tịch nước đi chăng nữa. Cần phải hiểu rõ là chính mô hình của Bộ Chính Trị này tạo điều kiện cho một tập thể lãnh đạo, ra quyết sách, quyết định của đất nước, chứ không phải là một cá nhân. Cho nên, chừng nào các thành viên còn lại trong Bộ Chính Trị không muốn thay đổi đường lối chính sách “ngoại giao cây tre” hiện giờ thì việc thay đổi nhà lãnh đạo cấp cao nhất là tổng bí thư cũng sẽ không có tác động lớn đối với đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam.RFI : Như anh vừa nêu phần nào, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm hiện giờ là nhà lãnh đạo quyền lực nhất Việt Nam nhưng dường như lại không có nhiều kinh nghiệm đối ngoại, điều này có thác động như thế nào đến ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là với Trung Quốc và Hoa Kỳ ?Vũ Khang : Thực ra kinh nghiệm đối ngoại không quá quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay. Nhất là khi các quyết sách ngoại giao của Việt Nam được thông qua bởi Bộ Chính Trị chứ không phải một cá nhân. Tóm lại, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm có thể không có kinh nghiệm ngoại giao nhiều như những người tiền nhiệm nhưng không có nghĩa là những người đồng chí ở trong Bộ Chính Trị hoặc những nhà hoạch định chính sách dưới quyền của ông Tô Lâm trong nước cũng không có kinh nghiệm ngoại giao nào cả.Có thể hình dung ra rằng ông Tô Lâm như là một người đại diện lớn nhất cho chính sách đối ngoại của Việt Nam chứ ông cũng chỉ là một nhân tố quyết định chính sách đối ngoại. Cho nên kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm, mặc dù về tương lai sẽ quan trọng, nhưng hiện giờ trong bối cảnh Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về thượng tầng lãnh đạo, thì kinh nghiệm ngoại giao không phải là ưu tiên quan trọng nhất lúc này. Và cần phải nhấn rõ rằng kinh nghiệm ngoại giao cần phải được đúc kết về lâu về dài. Nhiều nhà lãnh đạo, kể cả những tổng thống của Mỹ hay những nước phương Tây khác, khi họ lên chưa chắc họ cũng đã có kinh nghiệm ngoại giao. Nhưng trải qua những lần công tác hay là những cuộc gặp quốc tế, họ dần trở nên bạo dạn hơn và có những tiếp xúc giúp cho họ có thêm kinh nghiệm để đối đáp với những đối tác nước ngoài.Điểm tiếp theo, đó là về mặt quan điểm chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi, cho nên đấy mới là điều mà Mỹ với Trung Quốc muốn nghe nhất thời điểm này, hơn là kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm. Bởi vì thực ra Mỹ với Trung Quốc đều hiểu rằng là chừng nào Việt Nam còn duy trì một vị trí trung lập, kinh nghiệm ngoại giao của người đứng đầu hệ thống đảng và nhà nước không quá là quan trọng. Đọc thêm : Việt Nam : Ngoại giao cây tre với Trung Quốc mang đặc tính « tân triều cống »RFI : Với nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là Đức và Slovakia, khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin cũng như là những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, có còn là rào cản trong mối liên hệ với nhà lãnh đạo quyền lực nhất hiện nay không ?Vũ Khang : Các nước phương Tây vẫn giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền khi có những trao đổi qua lại với chính quyền Việt Nam. Đây cũng là một cách để họ có thể ép Việt Nam phải có những nhượng bộ về ngoại giao. Họ có thể sử dụng những lá bài này để lên án Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tổn hại uy tín của Việt Nam. Tuy vậy, việc sử dụng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong rất nhiều phương thức để phương Tây bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ với Việt Nam.Chính việc dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong nhiều phương thức tạo điều kiện cho phương Tây. Đôi khi họ đặt những quyền lợi cốt lõi của họ, quyền lợi về kinh tế hoặc là quyền lợi về chính trị, lên trên cả những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền. Đơn cử Mỹ chẳng hạn, trong quá khứ, Mỹ cũng đã rất nhiều lần cho thấy là họ cũng không ngần ngại hợp tác, tăng cường quan hệ với nhà nước độc đảng nếu các nhà nước độc đảng đó có chung lợi ích với Mỹ.Và chính Liên Hiệp Châu Âu cũng đã đánh tín hiệu với chính quyền của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm là họ coi trọng, muốn hợp tác với chính quyền mới của ông khi phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, ông Josep Borrell đã đến Việt Nam và dự lễ tang của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sau khi dự lễ tang, ông đã có cuộc gặp với ông Tô Lâm. Chính cuộc gặp với một nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cũng khẳng định rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng không muốn những hiểu lầm, những sự kiện trong quá khứ làm tổn hại mối quan hệ giữa EU và nhà lãnh đạo mới của Việt Nam. Đọc thêm : Liên Hiệp Châu Âu muốn nâng cấp quan hệ với Việt NamCần phải nói rõ vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang ngày càng đi lên, nhất là khi Mỹ và các đồng minh đang nỗ lực chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến những nước “bớt thù nghịch hơn” như Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính Liên Hiệp Châu Âu cũng không có lý do gì để một chuyện trong quá khứ hoặc những vấn đề dân chủ, nhân quyền làm tổn hại tương lai, lợi ích của họ khi chính họ cũng nhìn ra được rằng mở rộng hợp tác kinh tế với Việt Nam đang là xu thế toàn cầu và đang là một xu thế có lợi cho kinh tế của phương Tây.RFI : Mới đây, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm với tổng thống Nga và hai bên khẳng định về mối quan hệ song phương. Trong thời gian tới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nga sẽ đi theo hướng như nào ?Vũ Khang : Trước khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, vào tháng 07/2024, ông Tô Lâm đã là người đại diện cho chính quyền Việt Nam đón tổng thống Nga Vladimir Putin. Việc Nga gửi lời trao đổi với ông Tô Lâm trong tuần vừa rồi (ngày 08/08/2024) về việc Việt Nam và Nga muốn tăng cường quan hệ ngoại giao, thực ra không có gì là mới hay bất ngờ bởi vì từ xưa đến nay, chính sách đối ngoại của Nga luôn luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác châu Á quan trọng song song với Ấn Độ khi mà Nga và Việt Nam có mối quan hệ quân sự từ rất lâu và quan hệ giữa hai nước chưa bao giờ gặp phải khủng hoảng đến mức trầm trọng như quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hoặc với Trung Quốc. Đọc thêm : Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"Trong hoàn cảnh Việt Nam cũng nhận thấy rằng “ngoại giao cây tre” cần phải được liên tục phát triển và nhấn mạnh, thông qua việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nga, việc Việt Nam và Nga có cuộc điện đàm để tái khẳng định chuyến thăm của ông Putin đến Hà Nội là một điều rất bình thường và cũng là một điều nằm trong chính sách đối ngoại “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Sự kiện đó cũng muốn tái khẳng định rằng chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới thời tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sẽ không có gì thay đổi so với thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Vũ Khang, trường Đại học Boston, Hoa Kỳ.*******(1) Nguyen Phu Trong’s ‘Bamboo Diplomacy’: Legacy in the Making?(2) Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước
8/12/2024 • 9 minutes, 38 seconds
Ranh giới ngoài thềm lục địa: Vấn đề cần giải quyết giữa Việt Nam và Philippines
Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa. Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại: "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines: "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”. Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:"Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi. Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:"Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái. Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình. Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc." Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:"Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc. Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS. Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông. Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc." Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines. Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển". Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.
8/5/2024 • 9 minutes, 40 seconds
Chống tham nhũng thời hậu Nguyễn Phú Trọng: Sẽ vẫn "diệt chuột không để vỡ bình"
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ Đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại Hội Đảng năm 2026? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo Đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của Đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ Đảng.Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính Trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính Trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên Trung ương Đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của Đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của Đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của Đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của Đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo Đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của Đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo Đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công An thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới? Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị cũng bị kỷ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà Đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của Đảng “lợi dụng” để làm suy yếu Đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, Đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của Đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ. Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà Đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của Đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của Đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.” RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, Bộ Chính Trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông? Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của Đảng, cũng như của bản thân người đó.Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao. Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”
7/29/2024 • 10 minutes, 7 seconds
Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam
Chủ tịch nước Tô Lâm trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi kiêm nhiệm chức tổng bí thư đảng Cộng Sản từ ngày 18/07/2024. Giới quan sát và truyền thông phương Tây đều cho rằng ông Tô Lâm « có khả năng củng cố quyền lực hơn nữa ». Là người trực tiếp chống tham nhũng và cũng là « người cuối cùng trụ lại », ông Tô Lâm sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông Nguyễn Phú Trọng nhưng « phục vụ cả lợi ích riêng », theo nhận định của giáo sư Zachary Abuza, Trường Chiến tranh Quốc gia Washington.Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là « bước đệm » cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam - tổng bí thư và chủ tịch nước - là « một thắng lợi hoàn toàn » của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).Ông đánh giá : « Đây là một chính trị gia vô cùng quyền lực, nhận được sự ủng hộ của một bộ (Công An) nằm trọng tâm của dự án chính trị. Chúng ta sẽ thấy một sự cá nhân hóa quyền lực xung quanh ông ». Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 19/07, chuyên gia về Việt Nam Benoît de Tréglodé, nhấn mạnh sẽ « không có đoạn tuyệt », mà là « tiếp nối » chính sách của người tiền nhiệm. Có nghĩa là chiến dịch « đốt lò » sẽ tiếp diễn, nhưng được điều phối để tránh ảnh hưởng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.RFI : Ông Tô Lâm dường như từng không muốn trở thành chủ tịch nước Việt Nam nếu như chỉ giữ một mình chức vụ này nhưng hiện giờ ông đang giữ vị trí mà ông Võ Văn Thưởng phải từ bỏ. Chức vụ mà ông Tô Lâm thực sự nhắm tới là tổng bí thư đảng Cộng Sản, hiện giờ ông được bộ Chính Trị chỉ định thay thế cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Như vậy ông kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất. Liệu cuối cùng thời điểm có đến sớm hơn so với dự kiến không ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên phải nhớ rằng ông Tô Lâm suy ngẫm đến việc này từ nhiều năm nay. Ý thức rõ về vị trí bộ trưởng Công An của mình, ông đã chiếm được vị trí trung tâm chiến lược trong bộ máy Nhà nước. Cũng đừng quên rằng công an luôn là một yếu tố an ninh vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ chế độ từ bên trong trước những chuyển biến chung của thời đại và xã hội. Nhờ vị trí chiến lược đó mà ngay từ đầu, ông Tô Lâm đã là một ứng cử viên có tiềm năng lớn để thay thế ông Nguyễn Phú Trọng.Vị trí chủ tịch nước có tầm quan trọng tương đối hình thức trong hệ thống chính trị Việt Nam, ông Tô Lâm không quan tâm trực tiếp đến chức vụ này. Nếu ông chấp nhận đảm nhiệm vai trò chủ tịch nước, đó là vì ông biết dù sao đi nữa thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng không còn nhiều thời gian và chức chủ tịch nước thực sự chỉ là hình thức chuyển tiếp đối với ông. Xin nhắc lại là trong lịch sử chính trị Việt Nam đã có một số lần vị trí chủ tịch nước và tổng bí thư do cùng một người đảm nhiệm, ví dụ sau khi chủ tịch nước Trần Đại Quang mất, ông Nguyễn Phú Trọng kiêm nhiệm từ năm 2019 đến 2021.Hiện giờ, có lẽ chính việc tạm quyền, điều mà ông từng ngóng đợi và hy vọng đó, sẽ đưa ông giữ chức vụ này ít nhất cho đến đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào đầu năm 2026. Cho nên, xin nhắc lại, đó là điều mà ông Tô Lâm đã tính toán.RFI : Tại sao « đây là một thắng lợi hoàn toàn đối với ông » Tô Lâm, theo đánh giá của ông với một số cơ quan truyền thông Pháp ? Benoît de Tréglodé : Điều đầu tiên cần ghi nhận là trong những năm qua, với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế, các cuộc khủng hoảng kinh tế thường xuyên, khủng hoảng Covid-19, tất cả các xã hội đều suy yếu. Vì vậy mục tiêu của các nhà lãnh đạo đất nước - vốn khá độc đoán - là làm mọi cách để bảo vệ sự phát triển yên bình của đất nước.Và nhìn từ góc độ này, trật tự là một khái niệm cực kỳ quan trọng. Đó cũng là điểm chung đã đưa ông Nguyễn Phú Trọng đến gần ông Tô Lâm hơn, lúc đó mới chỉ là bộ trưởng Công An chứ không phải là người kế thừa.Mối quan hệ giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tô Lâm đôi lúc vô cùng sóng gió. Nhưng rõ ràng họ có chung quan niệm là xã hội Việt Nam phải có kỷ cương, không thể để đất nước được quản lý theo cách « hỗn loạn, bất ổn » và cần phải cân bằng giữa chủ trương « cởi mở về chính trị » và quan niệm « chặt chẽ về trật tự ». Do đó, trật tự và việc duy trì trật tự là trọng tâm trong dự án chính trị của hai nhà tư tưởng cực kỳ thực dụng này. Cả hai đều chưa bao giờ thực sự muốn xem xét lại sự cân bằng quyền lực truyền thống với Bắc Kinh, cũng như các nước lớn khác trên trường quốc tế. Mục tiêu là tránh bất ổn trong nước và cho phép kinh tế xoa dịu bớt những khát vọng tiềm tàng của người dân trong việc đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn.RFI : Liệu « chiến thắng » này có khả năng kéo dài đến sau cả Đại hội đảng ?Benoît de Tréglodé : Có. Phải nói là lịch sử thường không phải là nhà cố vấn hay lắm nhưng đôi khi thì ngược lại. Người ta vẫn nhớ đến một nhân vật ít nổi tiếng nhưng cuối cùng lại để lại một chút dấu ấn trong ký ức, đặc biệt là ở nước ngoài, trong đó có Pháp. Đó là bộ trưởng bộ Công An đầu tiên của Việt Nam, ông Trần Quốc Hoàn. Trong thời gian rất dài, gần 28 năm, từ năm 1953 đến 1981, ông Trần Quốc Hoàn đứng đầu một bộ nòng cốt, mà hiểu được cách vận hành của bộ này giúp nắm được sự hình thành chế độ chính trị Việt Nam.Có thể hình dung là ông Tô Lâm lấy tấm gương lịch sử này để làm hình mẫu. Ông Trần Quốc Hoàn trở thành bộ trưởng bộ Công An năm 36 tuổi. Đây không phải là trường hợp của ông Tô Lâm khi ông giữ vị trí được đánh giá là quan trọng trong bộ máy Việt Nam. Nhưng dù sao gương mặt lịch sử này có ý nghĩa quan trọng để hiểu điều mà ông Tô Lâm muốn làm với chế độ chính trị Việt Nam và cách ông đã thành công trong vòng 3-4 năm vừa qua, đưa bộ Công An và người của ông vào vị trí không ai cạnh tranh được. Trong bộ máy Nhà nước, cũng như trong bộ Chính Trị và trong chính phủ, người xuất thân từ bộ Công An hiện giờ không có đối thủ cạnh tranh.RFI : Việc ông Tô Lâm kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất, ít nhất cho đến kỳ Đại hội đảng, có thể dẫn đến những thay đổi nào trong nội bộ ?Benoît de Tréglodé : Sẽ không có thay đổi lớn nào. Trước tiên, đó là một kế hoạch chính trị đã được suy tính. Chúng ta nhớ là vào kỳ họp toàn thể của đảng Cộng Sản vào mùa thu 2023, vấn đề kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng còn chưa ngã ngũ. Ông Tô Lâm thực sự không muốn có một cái tên nào khác nổi lên. Bị rơi vào tình thế khá tế nhị đó, ông Nguyễn Phú Trọng buộc phải quyết định là đích thân ông chỉ đạo tiểu ban nhân sự đảng. Đây là điểm quan trọng để hiểu được thời điểm căng thẳng lúc đó. Ông Tô Lâm, nhân vật quyền lực số hai của chính quyền lúc đó, đã tính toán và chuẩn bị cho mục tiêu của mình.Một điểm quan trọng khác vào thời điểm đó, đó là ông Tô Lâm đã lãnh trách nhiệm về các chiến dịch chống tham nhũng, lĩnh vực trước đây nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng. Vì vậy, sự chuyển tiếp đã được được bắt đầu từ nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm qua, cho nên đừng mong là sẽ có những thay đổi lớn nào đó xảy ra từ giờ cho đến Đại hội đảng Cộng Sản sắp tới. Ông Tô Lâm hoàn toàn ý thức được rằng từ giờ ông kiểm soát bộ máy nhà nước Việt Nam. Và ông cũng ý thức được hình ảnh của ông, cũng như trách nhiệm về hình ảnh của ông ở nước ngoài. Không có chuyện khiến các đối tác thương mại lớn nước ngoài sợ hãi. Đảng không có phương tiện, chính phủ cũng vậy. Tôi nghĩ rằng ông Tô Lâm sẽ duy trì tư duy khá cổ điển, có nghĩa là chính sách « ngoại giao cây tre » nổi tiếng. Mô hình ngoại giao này không phải do ông Nguyễn Phú Trọng tạo ra mà đã có từ rất lâu trong nền chính trị Việt Nam. Và tôi nghĩ ông Tô Lâm sẽ tiếp tục chiến lược này.RFI : Các đối tác phương Tây sẽ có hình ảnh như thế nào về chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Tô Lâm, cũng như về chính phủ Việt Nam khi những kỷ niệm mà ông Tô Lâm để lại ở Đức và Slovakia không hẳn tốt đẹp lắm trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên, thường thì người ta chóng quên những chuyện liên quan đến chính trị. Tôi cho rằng chủ nghĩa thực dụng đang chiếm ưu thế và đặc biệt là đối với các đối tác lớn nước ngoài đang làm việc với Hà Nội, cũng như những đại tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và các nước đang mong muốn tăng cường hợp tác song phương với Việt Nam. Những hành xử độc đoán trong quá khứ sẽ bị lãng quên khá nhanh chóng.Hơn nữa, trong vòng một năm rưỡi cho đến kỳ Đại hội đảng lần tới, ông Tô Lâm sẽ tiếp tục công cuộc mà Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện, tức là cách thức mà cố tổng bí thư đã xây dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trong khu vực với một lập trường khá khéo léo, uyển chuyển giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và tất nhiên là vị trí của Việt Nam trong khu vực, như trong khối ASEAN hoặc với các cường quốc Đông Bắc Á. Đứng từ quan điểm này, chủ trương chuyên chế về chính trị với trong nước của ông Tô Lâm sẽ được phối hợp với một chủ nghĩa thực dụng về kinh tế cực kỳ mạnh mẽ.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
7/22/2024 • 10 minutes, 12 seconds
Việt Nam trước chiến lược “mưa dầm thấm lâu” của Trung Quốc để độc chiếm Biển Đông
Ngày 12/07/2024 đánh dấu tròn 8 năm Tòa Trọng Tài Quốc Tế xác định rằng các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết cuối cùng của Tòa đã được Việt Nam “hoan nghênh” cùng với tuyên bố “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình”. Tám năm sau, Việt Nam, Philippines vẫn phải đối phó với những hành động bạo lực, hăm dọa của Trung Quốc trong chiến lược “mưa dầm thấm lâu” độc chiếm Biển Đông (1). “Các hành động của Trung Quốc phản ánh sự coi thường trắng trợn đối với luật pháp quốc tế”, theo thông cáo của ngoại trưởng Mỹ ngày 11/07. Phía Liên Hiệp Châu Âu khẳng định trong một tuyên bố ngày 12/07 rằng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, chỉ có luật quốc gia của Trung Quốc mới có giá trị ở Biển Đông, theo nhận định của nhà phân tích, nghiên cứu độc lập Lénaïck Le Peutrec trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 11/07/2024.Chiến lược này được ban thành luật về vùng lãnh hải tháng 02/1992. Thoạt nhìn định nghĩa “lãnh hải” của Bắc Kinh phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Nhưng điểm nguy hiểm nằm ở tuyên bố 1958, được nhắc lại trong bộ luật 1992, theo đó lãnh thổ đất liền của Trung Quốc bao gồm Đài Loan và các nhóm đảo khác như Sankaku/Điếu Ngư (tranh chấp với Nhật Bản), Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa).RFI : Lénaïck Le Peutrec, bà là tác giả bài phân tích “Trung Quốc trong những xung đột ở Biển Đông : giải mã một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa”, đăng trên Asia Focus tháng 05/2024 của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến lược Pháp - IRIS (2). Trong bài viết, bà nhấn mạnh rằng luật về lãnh hải năm 1992 là một bộ luật quốc gia, thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông theo từng chặng, để tạo thành những “chuyện đã rồi” bất chấp luật pháp quốc tế. Theo thời gian, những tích tụ đó chuyển thành một sự thay đổi chiến lược quan trọng. Vậy chiến lược của Trung Quốc là gì ? Liệu vì những yêu sách đó, Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng ở Biển Đông ?Lénaïck Le Peutrec : Những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông nằm trong nỗ lực toàn vẹn lãnh thổ rộng lớn hơn của Trung Quốc. Cho nên chúng được ghi khắc trong những lợi ích cơ bản của Trung Quốc, giống như đối với đảo Đài Loan. Bắc Kinh đưa ra lập luận đòi chủ quyền dựa vào các quyền lịch sử, nguyên tắc hiện diện lâu đời được cho là được chứng thực bằng các văn bản có từ thời nhà Tống, tức là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13.Do đó, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với 80 đến 90% diện tích Biển Đông. Yêu sách này được chính thức ghi trong tài liệu “đường 9 đoạn”, lần đầu tiên được chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chính thức bằng một công hàm ngoại giao gửi tới Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2019. Bản thân tuyên bố này đã là một hành động kiểu “chuyện đã rồi”. Thêm vào đó còn có rất nhiều luật quốc gia khác củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Bắc Kinh viện vào đó để biện minh cho hành động của họ. Đọc thêm : Biển Đông: Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận’ mới cho ‘Tam Sa’ ?Như vậy luật về vùng lãnh hải năm 1992 đã chọn định nghĩa rộng hơn về các vùng biển của Trung Quốc, trên thực tế bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi Philippines, Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Chính nhờ dựa vào những quyền lịch sử từ xa xưa, không thể chối cãi ở Biển Đông và dựa trên luật pháp quốc gia xác quyết chủ quyền - được coi là “chuyện đã rồi” - mà Trung Quốc liên tục đưa tầu đánh cá vào các vùng biển có tranh chấp, thường xuyên tổ chức tuần tra hải cảnh, tiến hành hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo và thành lập các đơn vị, cơ quan hành chính mà trên thực tế là để thiết lập chủ quyền.RFI : Tháng 03/2024, Trung Quốc thông báo xác lập đường cơ sở ở vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó là hành động hung hăng, ví dụ những sự cố với Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough trong thời gian gần đây… Phải chăng tất cả những hành động đó nằm trong chiến lược khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Việc phân định đường cơ sở là một chủ đề hết sức nhạy cảm ở Biển Đông để chúng ta có thể hiểu được bản chất chiến lược. Bởi vì Biển Đông là nơi chồng chéo những yêu sách chủ quyền giữa phần lớn các quốc gia ven biển. Các đường cơ sở có tính chiến lược mạnh mẽ vì chúng chi phối việc tính toán đường biên giới lãnh thổ của quốc gia ven biển, vùng nội thủy và các vùng biển nằm trong quyền tài phán của họ. Những vùng biển này là các vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Đọc thêm : Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?Qua đó, người ta có thể thấy đó là “cánh tay nối dài” trong hành động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên thực tế. Như tôi giải thích, phương thức hoạt động của Bắc Kinh bắt đầu từ một “chuyện đã rồi”. Trường hợp này chính là một ví dụ vì Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường cơ sở mới. Điều đáng quan ngại là Trung Quốc tiếp tục áp dụng cách hành động duy nhất đó, có nghĩa là viện đến luật quốc gia để áp đặt cơ sở pháp lý cho những hành động của họ.Những sự cố gần đây trong khu vực Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough nằm trong chiến lược hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2004. Cần phải lưu ý rằng những hành động này còn được củng cố thêm nhờ những biện pháp mới trong luật hải cảnh, có hiệu lực từ ngày 15/06/2024, cho phép bắt giữ tàu nước ngoài ở Biển Đông và giam giữ thủy thủ đoàn mà không cần xét xử.RFI : Vẫn trong bài viết trên Asia Focus của Viện IRIS, bà nhấn mạnh rằng “chính sách láng giềng hữu hảo của Trung Quốc hiện nay, được suy tính để cổ vũ việc hội nhập kinh tế trong vùng, có thể được coi là một tầm nhìn được cập nhật về hệ thống triều cống của đế quốc Trung Quốc”. Tại sao nên cảnh giác với chính sách này ? Các nước láng giềng sẽ gặp rủi ro gì trong xung đột chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Trong câu hỏi này có những yếu tố lịch sử và văn hóa mà tôi cho rằng cần phải nêu bật, song song với những yếu tố thực tế, để hiểu đầy đủ hơn về hành động của Trung Quốc.Yếu tố đầu tiên mà tôi muốn lưu ý là tầm nhìn mang tính chu kỳ về lịch sử mà Trung Quốc vẫn chia sẻ. Điều này có thể được tóm tắt hoàn hảo trong câu tục ngữ Trung Quốc, tạm dịch “thống nhất lâu dài thì phải chia cắt, chia rẽ lâu thì phải đoàn tụ”. Nền văn minh Trung Quốc được đánh dấu bằng một lập luận lịch sử, theo đó “sau phân chia sẽ là sự thống nhất”.Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến cách nhìn của Trung Quốc về vị trí trung tâm. Ngay tên gọi “Trung Quốc” - có nghĩa là “vùng đất ở giữa” - đã thể hiện rõ cách nhìn đó. Xuất phát từ vị trí trung tâm, Trung Quốc sống theo cách hiểu về địa lý thế giới xung quanh được định nghĩa theo cách nhìn của họ. Có thể thấy đa số những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông được đặt tên theo vị trí của chúng so với Trung Quốc, ví dụ quần đảo Hoàng Sa (Paracels) được gọi là Tây Sa, Trường Sa (Spratleys) là Nam Sa, bãi ngầm Macclesfield là Trung Sa. Đọc thêm : Khó khăn kinh tế Trung Quốc đe dọa ASEANChính sách láng giềng hữu hảo của Bắc Kinh cũng thể hiện một phần tầm nhìn về vai trò trung tâm của Trung Quốc. Trên thực tế, chính sách - được lập ra để khuyến khích hội nhập kinh tế khu vực - có thể được coi như là một quan niệm được cập nhật về hệ thống triều cống của đế chế Trung Hoa, dựa trên tính trung tâm của họ. Những điều kiện dễ dàng về kinh tế và thương mại được Trung Quốc chấp thuận thời nay thay thế cho sự bảo vệ của họ ngày trước, còn quyền lực và những lợi ích mà họ thu được thay cho những cống vật của các nước chư hầu ngày xưa. Tình thế này để lại rất ít khả năng hành động cho các nước ven biển láng giềng - những nước không có sức mạnh kinh tế hoặc năng lực tấn công quân sự như Trung Quốc.Cuối cùng phải nhắc đến việc ASEAN gần như tê liệt. Nội bộ Hiệp hội các nước Đông Nam Á bất đồng nhau trong xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Từ nhiều năm nay, ASEAN tìm cách thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) mà họ muốn có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đến giờ vẫn bị Bắc Kinh một mực phản đối.RFI : Tại sao Biển Đông lại là một khu vực thử nghiệm để Trung Quốc áp đặt tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới, như bà nêu trong bài phân tích ?Lénaïck Le Peutrec : Trước tiên, tôi nghĩ là cần phải hiểu được những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay đúng hơn là những động cơ của họ. Theo tôi, có ba động cơ.Thứ nhất về mặt khai thác, việc bảo đảm tiếp tục các hoạt động đánh bắt hải sản, bảo vệ và khai thác các nguồn năng lượng, khoáng sản là việc cần thiết cho sự thúc đẩy phát triển của Trung Quốc. Tiếp theo là phải bảo đảm các nguồn tiếp cận với các tuyến hàng hải, đặc biệt là ưu tiên tiếp cận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì đây là những tuyến đường thiết yếu để dòng chảy thương mại của Trung Quốc được luân chuyển. Về mặt an ninh, việc tự do lưu thông ở Biển Đông là phương tiện quan trọng cho uy tín về năng lực răn đe trên biển của Trung Quốc. Phần lớn các căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc nằm trên đảo Hải Nam, ở phía bắc Biển Đông. Đọc thêm : Vai trò trung tâm của ASEAN trước thách thức của cạnh tranh Mỹ - TrungCũng đừng quên sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực làm tăng thêm cảm giác bất an của Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ tăng cường rõ rệt các liên minh với các nước trong khu vực trong thời gian gần đây để công khai chống lại sự trỗi dậy ngày càng tăng của Trung Quốc. Cấu trúc địa lý của Biển Đông cũng đặt Trung Quốc vào thế bị lọt thỏm và phụ thuộc lớn vào eo biển Malacca, tuyến đường thương mại chính của nước này. Từ năm 2023, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến sự phụ thuộc quá mức của họ vào điểm trung chuyển này, cùng với sự bấp bênh về nguồn cung năng lượng do thiếu tuyến hàng hải thay thế.Bị thúc đẩy vì cảm giác bất an, Trung Quốc quyết tâm bảo đảm các lợi ích cơ bản của họ, bao gồm cả việc thống nhất đất nước, vốn là trọng tâm trong chính sách tái sinh vĩ đại của Trung Quốc và cũng là chính sách quan trọng hàng đầu của kỷ nguyên Tập Cận Bình. Những động cơ này của Trung Quốc khiến chúng ta nghĩ rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ thử phản ứng của cộng đồng quốc tế về Biển Đông bằng cách dần dần gặm những không gian mà họ tuyên bố thuộc về mình. Do đó, Biển Đông sẽ là địa điểm thử nghiệm đầu tiên về một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa, trước khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là thống nhất với đảo Đài Loan.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà phân tích, nghiên cứu Lénaïck Le Peutrec.(2) Lénaïck Le Peutrec, "La Chine dans les conflits en mer de Chine méridionale : décryptage d’un nouvel ordre aux caractéristiques chinoises", Asia Focus, mai 2024, IRIS.
7/15/2024 • 11 minutes, 8 seconds
Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"
Khi tiếp tổng thống Vladimir Putin, Hà Nội muốn "viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga" (1). Việt Nam không có lợi khi Nga suy yếu hoặc bị gạt ra ngoài lề trên trường quốc tế vì đối tác chiến lược toàn diện này giúp Hà Nội cân bằng trước những áp lực từ Trung Quốc và Mỹ (2). Việt Nam đã lường mọi phản ứng khi mời và tiếp đón tổng thống bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm "tội ác chiến tranh" ở Ukraina.Chuyến công du của ông Putin được quảng bá rầm rộ hơn hẳn những chuyến thăm cấp Nhà nước trước đó dù Hà Nội phần nào lo ngại bị phương Tây cho là "liên kết ngầm" khi ông Putin kết hợp với chuyến thăm Bình Nhưỡng (3). Hiện giờ, chỉ có Mỹ lên tiếng chỉ trích nhưng đồng thời cử ngay trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương Daniel Kritenbrink đến Hà Nội. Đặc sứ Mỹ không bình luận về đối ngoại của Việt Nam nhưng lưu ý "chỉ có Việt Nam có thể quyết định cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền và thúc đẩy các lợi ích".Vậy Hà Nội tính toán gì và được lợi gì khi tiếp đón tổng thống Nga Putin ? Phản ứng của các đối tác phương Tây sẽ ra sao ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon, Pháp.RFI : Tổng thống Nga Vladimir Putin đến thăm Việt Nam cấp Nhà nước sau chuyến công du Bắc Triều Tiên trong khi ông Putin đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm tội ác chiến tranh ở Ukraina. Mục đích chuyến công du Việt Nam của nguyên thủ Nga là gì ? Việt Nam tính toán gì khi tiếp tổng thống Putin ? Laurent Gédéon : Đúng vậy, ông Vladimir Putin công du Việt Nam ngày 20/06 theo lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, được đưa ra khá gần đây, trong cuộc điện đàm ngày 26/03/2024 với tổng thống Nga. Cho nên chuyến công du phản ánh rõ mong muốn của cả Nga lẫn Việt Nam. Công du Việt Nam không phải là chuyện mới đối với tổng thống Nga vì ông đã tới Việt Nam 4 lần : hai chuyến thăm cấp Nhà nước năm 2001, 2013 và hai lần tham gia thượng đỉnh hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương - APEC tại Đà Nẵng năm 2006 và 2017. Chuyến thăm hôm 20/06 ở cấp Nhà nước, với nghi thức cao nhất, là lần thứ năm ông đến Việt Nam và phải nói là đáng kể, đồng thời cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nga dành cho Việt Nam.Đối với Hà Nội, chuyến công du của tổng thống Putin mang lại nhiều lợi ích : Tăng uy tín quốc tế của Việt Nam ; gửi thông điệp đến Trung Quốc rằng Việt Nam không đơn độc và có thể dựa vào nhiều nhân tố lớn mạnh, kể cả liên quan đến vấn đề Biển Đông ; gửi thông điệp đến Hoa Kỳ ; tăng cường mối quan hệ với Nga. Nghi lễ đón tiếp trang trọng, nồng nhiệt, nhất là việc chính phủ Việt Nam nhấn mạnh đến tính chất đặc biệt của mối quan hệ với Nga cho thấy rằng đối với Hà Nội, cuộc gặp này là cơ hội để nâng cao mối quan hệ với một đất nước mà họ coi là "một trong những đối tác chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam", theo phát biểu của chủ tịch nước Tô Lâm. Về mặt ý nghĩa biểu tượng, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng muốn cho thấy rằng sự ủng hộ của Liên Xô trong chiến tranh Đông Dương và Cam Bốt vẫn chưa bị lãng quên. Đọc thêm : Tổng thống Vladimir Putin chờ đợi gì ở Việt Nam ?Dĩ nhiên, phía Nga cũng được lợi vì chuyến công du giúp Matxcơva khẳng định rằng họ không bị cô lập, họ có bạn ở khắp nơi trên thế giới, giúp tăng cường tính chính đáng ngoại giao của Nga, giữ cân bằng với Trung Quốc, đồng thời gửi thông điệp đến Hoa Kỳ rằng nỗ lực của phương Tây nhằm cô lập tổng thống Nga đã thất bại. Do đó, có thể thấy sự hội tụ lợi ích giữa Việt Nam và Nga trong khuôn khổ chuyến công du này.Bối cảnh của chuyến công du cũng rất đặc biệt vì có rất nhiều hoạt động ngoại giao. Trước tiên là kỷ niệm 30 năm Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, được Việt Nam và Nga ký ngày 16/06/1994. Tiếp theo là sắp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương (tháng 01/1950). Ngoài ra, Việt Nam nằm trong số 12 nước được mời tham dự đối thoại BRICS với các nước đang phát triển, được tổ chức tại Matxcơva ngày 11/06. Cuối cùng, vào đầu tháng 03, Việt Nam và Nga đã tổ chức đối thoại chiến lược lần thứ 13 về ngoại giao, an ninh-quốc phòng.Về mặt địa chiến lược, cần lưu ý là chuyến công du diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Philippines và Trung Quốc, đặc biệt là vụ va chạm ngày 17/06 giữa thủy thủ hai nước khi tàu của Philippines tiếp viện cho lực lượng đồn trú trên con tàu bị mắc kẹt ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).RFI : Chuyến thăm của tổng thống Nga Vladimir Putin có những tác động như thế nào đối với Việt Nam ?Laurent Gédéon : Chuyến công du này cho thấy rõ mong muốn hợp tác chính thức với những mục tiêu được thể hiện chi tiết rõ ràng. Hai nước tăng cường mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, công nghệ, nhân đạo, khoa học, năng lượng, giáo dục, du lịch và văn hóa. Chúng ta cũng thấy tổng thống Putin đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề điện hạt nhân dân sự và khả năng các công ty Nga tham gia vào lĩnh vực này ở Việt Nam.Ngoài ra, vấn đề tăng cường đối tác chiến lược giữa hai nước cũng được đặt ra. Thứ nhất về lĩnh vực vũ khí, theo như tôi biết là không được nêu đích danh, nhưng phải nhắc lại rằng Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam. 90% vũ khí được Hà Nội nhập khẩu từ 1995 đến 2015 là của Nga. Cuộc chiến ở Ukraina giúp Nga quảng cáo một số loại vũ khí với các đối tác, trong đó có Việt Nam. Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụtTuy nhiên, ở đây chúng ta có thể đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc của Việt Nam, khá là đáng báo động, vào vũ khí Nga nếu nhìn vào bối cảnh tế nhị của cuộc chiến ở Ukraina và sự điều chỉnh thế cân bằng ở Á-Âu, nơi Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng đáng kể. Nga không có hiệp ước phòng thủ chung với Việt Nam, không giống như hiệp ước mà tổng thống Putin vừa tái kích hoạt với Bắc Triều Tiên. Do đó, có thể hỏi liệu Matxcơva có sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam bảo vệ lãnh thổ hay không trong khi Nga cũng phụ thuộc về ngoại giao và công nghệ vào Trung Quốc ? Đây là một câu hỏi rất quan trọng trong bối vũ khí Nga chiếm gần như toàn bộ trong quân đội Việt Nam.Tiếp theo là tác động trong lĩnh vực dầu khí khi biết rằng Matxcơva là đối tác ngày càng quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực này. Rất nhiều tập đoàn lớn của Nga như Gazprom chiếm phần lớn hoạt động trong lĩnh vực dầu khí ở Việt Nam. Về mặt kinh tế nói chung, theo số liệu, hợp tác Nga-Việt gia tăng đáng kể, cụ thể trao đổi thương mại song phương đạt 3,63 tỷ đô la năm 2023, tăng 2,3% so với năm trước. Chỉ riêng 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nga đạt 1,96 tỷ đô la, tăng 51,4% trên một năm. Có rất nhiều nhà đầu tư Nga ở Việt Nam, tham gia vào 186 dự án với tổng số vốn là 984,98 triệu đô la, giúp Nga đứng hàng thứ 28 trong số 145 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Phía Việt Nam đã đầu tư vào 18 dự án ở Nga, với tổng trị giá khoảng 1,63 triệu đô la.Cuối cùng về hệ quả chính trị hay ngoại giao, có thể chuyến công du của tổng thống Putin không gây tác động quá lớn về mặt ngoại giao cho Việt Nam.RFI : Vậy hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ bị ảnh hưởng như thế nào khi Hà Nội tiếp một tổng thống gây chiến ở Ukraina từ ba năm nay ? Laurent Gédéon : Tôi nghĩ rằng hình ảnh của Việt Nam sẽ ít bị tác động bởi vì Hà Nội khá là kín tiếng về chủ đề Ukraina. Việt Nam vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu ngày 02/03/2022 về nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc lên án cuộc xâm lược của Nga ở Ukraina. Sau đó, Việt Nam đã bỏ phiếu chống việc loại Nga khỏi Hội Đồng Nhân Quyền tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 07/04/2022. Gần đây Việt Nam cũng không tham dự hội nghị về hòa bình cho Ukraina, diễn ra ở Thụy Sĩ ngày 15-16/06.Tại Hà Nội, tổng thống Putin nhấn mạnh đến việc Nga và Việt Nam có cách nhìn "tương đồng" về tình hình châu Á-Thái Bình Dương. Ông cũng nhấn mạnh đến những nỗ lực của Hà Nội "để bảo vệ một trật tự thế giới cân bằng, dựa trên những nguyên tắc bình đẳng của tất cả các nước và không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau". Đọc thêm : Lời mời tổng thống Nga Putin thăm Việt Nam và thế cân bằng khó khăn của Hà NộiDù trong bối cảnh tế nhị như vậy, việc tái khẳng định mối quan hệ Việt-Nga có lẽ không tác động đến hình ảnh của Hà Nội chừng nào nền "ngoại giao cây tre" - đa phương, linh hoạt và thận trọng - vẫn vận hành. Đây là chiến lược tập trung phát triển quan hệ đối tác với nhiều nước, đôi khi thuộc các khối đối lập, mà vẫn giữ được độc lập và lợi ích quốc gia. Chính điều này giúp Việt Nam duy trì thế cân bằng giữa các siêu cường đối thủ : Trung Quốc, Nga và Mỹ. Do đó, Nga là một đối trọng hữu ích để Việt Nam đối phó với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Về mặt truyền thông ngoại giao, chuyến thăm của Putin là cơ hội để Hà Nội chứng tỏ rằng chính sách đối ngoại của họ là cân bằng, không thiên vị bất kỳ cường quốc nào.Vì vậy tôi cho rằng Việt Nam sẽ chỉ bị ít hệ quả tiêu cực nhưng thu được lợi ích về kinh tế và ngoại giao nhiều hơn.RFI : Ngay sau khi ông Putin rời Hà Nội, ông Daniel Kritenbrink, trợ lý ngoại Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương đã đến Việt Nam ngày 21/06. Hoa Kỳ và các nước phương Tây sẽ phản ứng ra như thế nào đối với Việt Nam ? Liệu sẽ có hình thức trừng phạt nào đó hay chỉ là những lời chỉ trích ? Laurent Gédéon : Việt Nam, giống như Nga, Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ, không tham gia Tòa Án Hình Sự Quốc Tế nên không bận tâm đến lệnh bắt của Tòa nhắm vào tổng thống Nga vì bị cáo buộc gây tội ác chiến tranh ở Ukraina. Cần lưu ý là trước chuyến công du Việt Nam, tổng thống Nga đã đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất ngày 06/12/2023 và các nước phương Tây chỉ đưa ra những phát biểu phản đối. Đọc thêm : Nga xâm lược Ukraina và “Ngoại giao cây tre” của Việt NamHoa Kỳ đã phản ứng, chủ yếu thông qua phát biểu của người phát ngôn Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Ông tuyên bố : "Không một nước nào nên trao cho ông Putin một diễn đàn để cổ vũ cuộc chiến xâm lược của ông ta và cho phép ông tác bình thường hóa những tội ác". Ông cũng nói thêm rằng "nếu ông Putin có thể tự do đi lại, điều đó có thể sẽ khiến những vụ vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế của Nga trở thành chuyện bình thường". Cho nên Mỹ rất chú ý đến những gì đang diễn ra ở Việt Nam.Tổng thống Mỹ Joe Biden công du Việt Nam ngày 10-11/09/2023 và hai bên đã ký thỏa thuận "Đối tác chiến lược toàn diện", mức cao nhất của Hà Nội. Sau đó, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đến thăm Việt Nam ngày 12-13/12/2023. Có thể thấy Việt Nam rất được "chú ý" vì có tầm quan trọng địa-chính trị ở trong vùng. Trong bối cảnh đó, ít có khả năng Hoa Kỳ, cũng như Liên Hiệp Châu Âu hay những nước phương Tây khác, vượt qua ngưỡng phát biểu bày tỏ bất bình đối với Hà Nội sau chuyến công du của nguyên thủ Nga.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon.(1) "Viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga", Nhân Dân, 06/2024.(2) (3) Thayer Consultancy, Background Brief : Russia’s Putin to Visit Vietnam: Scene Setter – 4, June 17, 2024.
6/24/2024 • 9 minutes, 39 seconds
Pháp triển khai dự án hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu tại 15 tỉnh Việt Nam
Việt Nam có 3.200 km bờ biển, phải đối mặt thường xuyên với giông bão, lũ lụt, sạt lở. Khoảng 30% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nhấn chìm nếu nước biển dâng khoảng 50 cm. Dân số dự kiến đạt đến 120 triệu người từ nay đến 2030 trong khi nền kinh tế vẫn phát thải khí CO2 vì 42% sản lượng điện vẫn phụ thuộc vào than đá. Là một trong 5 nước không phải là đảo quốc bị tác động mạnh vì biến đổi khí hậu, Việt Nam đã đặt ra nhiều tham vọng lớn để đạt mục tiêu trung hòa khí phát thải cho đến năm 2050. Trong hành trình này, Pháp khẳng định sát cánh với Việt Nam.Thông qua nhiều dự án tài trợ trực tiếp hoặc trong khuôn khổ các thỏa thuận với các đối tác quốc tế (JETP của G7, Liên Hiệp Châu Âu, Na Uy và Đan Mạch hoặc chiến lược GlobalGateway của Liên Hiệp châu Âu…), chính phủ Pháp, cũng như Cơ quan Phát triển Pháp (Agence Français de Développement, AFD), thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam, giúp Việt Nam khắc phục một số hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra.Để hiểu hơn về các dự án đang và sắp được triển khai, đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet đã trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt ngày 13/06/2024.RFI : Hai dự án tài trợ tài chính của Liên Hiệp Châu Âu và của Pháp nhằm đầu đối phó với tác động của biến đổi khí hậu đã được thông báo vào tháng Ba vừa qua. Dự án thứ nhất ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam và dự án thứ hai ở thành phố Đông Hà, tỉnh quảng Trị. Xin Đại sứ cho biết tình hình khẩn cấp đến mức độ nào để giải thích cho việc lựa chọn hai địa phương này ?Đại sứ Olivier Brochet : Trước tiên cần phải nhắc lại rằng Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tại Việt Nam tập trung vào các dự án về khí hậu. Có nghĩa là những nguồn tài chính của Cơ quan Phát triển Pháp là nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng, và chủ yếu là vì lợi ích của ngành điện Việt Nam, của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, hoặc nhằm để thích ứng với biến đổi khí hậu và trường hợp này chủ yếu có lợi cho các tỉnh. Đọc thêm : Cơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậuTrong trường hợp thứ hai này, với hai dự án nêu trên là do bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam đã đề nghị Cơ quan Phát triển Pháp đầu tư tài chính. Dự án ở Hội An liên quan đến xói lở bờ biển đang diễn ra rất nhanh, cấp bách. Cho nên dự án tài trợ đó nhằm mục đích hạn chế xói mòn bờ biển, nhất là bảo vệ các bãi biển trong khu khách sạn ven biển Hội An. Về dự án ở Đông Hà, đó là do thành phố này bị lũ lụt thường xuyên, cho nên cần phải hỗ trợ nỗ lực phòng chống lũ lụt của thành phố. Công trình được tiến hành ở lưu vực thượng nguồn để cố gắng tránh các trận lũ lụt thường xuyên ở các khu vực trung tâm. Tôi điểm sơ qua về nguồn gốc của hai dự án nhưng cả hai cùng nằm trong chính sách chung do Pháp, đặc biệt là do cơ quan AFD tại Việt Nam, tiến hành vì lợi ích của các tỉnh và dĩ nhiên là có dự hỗ trợ của Liên Hiệp Châu Âu, cũng như Quỹ WARM (Water and Natural Resources Management Facility - Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam) nhằm mục đích hỗ trợ tất cả các dự án tăng cường năng lực đối phó với biến đổi khí hậu.RFI : Việt Nam nằm trong số 5 nước không phải là đảo dễ bị tác động nhất trước những hệ quả của biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, còn có những địa phương nào cần sự hỗ trợ và kinh nghiệm chuyên ngành của Pháp và Liên Hiệp Châu Âu ?Đại sứ Olivier Brochet : Tôi nghĩ, có thể nói là tất cả các tỉnh ở Việt Nam đều dễ bị tác động do hệ quả của biến đổi khí hậu. Như chị nhắc ở trên Việt Nam là một trong số 5 nước không phải là đảo bị tác động nặng nề và sẽ còn bị như vậy. Có thể thấy việc này qua các trận ngập lụt, xói lở bờ biển, nước mặn xâm lấn hoặc ngược lại là tình trạng hạn hán nghiêm trọng ở nhiều vùng, cho nên cần phải can thiệp ở khắp nơi. Đọc thêm : Pháp, Mỹ hỗ trợ Việt Nam chống biến đổi khí hậuHiện nay, Cơ quan Phát triển Pháp có dự án tại khoảng 15 tỉnh ở Việt Nam theo đề nghị của UBND những tỉnh mà chúng tôi duy trì mối quan hệ, đôi khi có từ lâu, và thực hiện chung nhiều dự án trước đó. Chúng ta mới nêu hai ví dụ nhưng còn nhiều dự án khác nữa. Tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt đến ba dự án mà Cơ quan Phát triển Pháp điều phối ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi rất dễ bị tác động trong tương lai vì 50% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị chìm dưới nước từ nay đến cuối thế kỷ vì nhiều lý do và đang chịu nhiều vấn đề rất trầm trọng. Ví dụ cơ quan AFD can thiệp ở Cà Mau với một dự án cũng liên quan đến xói lở bờ biển để hạn chế hiện tượng này. Còn dự án thứ hai là ở Hậu Giang về xử lý các vụ ngập lụt trong thành phố. Cả hai dự án đã được phê chuẩn và sắp được ký duyệt. Còn một dự án khác ở Vĩnh Long nhằm chống xâm nhập mặn và củng cố bờ sông.RFI : Đại sứ nêu ít nhất 5 dự án ở trên, liệu cơ quan AFD có giám sát, hỗ trợ hoặc chuyển giao kinh nghiệm cho đối tác Việt Nam để các dự án này bền vững sau khi đi vào hoạt động trong tương lai không ?Đại sứ Olivier Brochet : Có, tất cả những dự án này trước đó đều được thảo luận khá kỹ lưỡng về kỹ thuật để xác định chính xác những nhu cầu về thiết bị, về vật liệu, về công trình, cũng như nhu cầu về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên - những người chịu trách nhiệm quản lý những vấn đề này. Và Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên - WARM do Liên Hiệp Châu Âu triển khai rất hữu ích cho việc này vì cho phép tài trợ, thông qua hình thức trao tặng, những chương trình hỗ trợ kỹ thuật này. AFD được Quỹ WARM tài trợ khoảng 2 triệu euro hàng năm cho tất cả các dự án của cơ quan nhằm hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật cho cho các UBND tỉnh.RFI : Tại hội nghị khí hậu COP 26, Việt Nam đã thông báo nhiều mục tiêu đầy tham vọng. Pháp và nhóm G7 sẵn sàng giúp Việt Nam thực hiện thông qua chương trình Thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng - JETP. Vậy đâu là những hướng đi để đạt được những mục tiêu đó ?Đại sứ Olivier Brochet : Đúng vậy, Việt Nam đã dũng cảm cam kết và quyết tâm đối phó với vấn đề nhiệt độ nóng lên trên toàn cầu. Tôi xin nhắc lại những cam kết được đưa ra tại COP 26, đó là trung hòa khí CO2 vào năm 2050, thoát khỏi than đá vào thập niên 2040, giảm khí metan mà chúng ta biết ở Việt Nam là rất lớn, đặc biệt do trồng lúa. Đó là những cam kết đầy tham vọng.Mong muốn của chúng tôi, và tôi cũng cho đó là nghĩa vụ của chúng tôi, là hỗ trợ Việt Nam thực hiện những cam kết được đưa ra. Chính vì thế Pháp đã cam kết với những đối tác khác trong khuôn khổ Thỏa thuận JETP để mang lại hỗ trợ cụ thể cho Việt Nam. Cũng vì thế vào tháng 06/2023, Pháp đã đề xuất Hiệp ước Paris vì Con người và Hành tinh (Pacte de Paris pour les peuples et la planète, 4P). Việt Nam cũng tham gia và nằm trong số 54 nước ký kết. Ý nghĩa của Hiệp ước này là những nước đang phát triển không phải lựa chọn giữa phát triển vì người dân và chống biến đổi khí hậu. Do đó, các nước giàu nhất cũng phải tham gia hỗ trợ những nỗ lực mà các nước phương Nam đã kiên quyết đưa ra. Có thể thấy Pháp đã đưa ra những cam kết chính trị rất rõ ràng, rất mạnh mẽ và chúng tôi đang thực hiện những cam kết đó ở đây.Tôi vừa nêu ở trên về Thỏa thuận JETP bởi vì Pháp, cùng với các đối tác trong G7, đã cam kết giải ngân 500 triệu euro trong vòng 5 năm và nhiều dự án đầu tiên sắp được thực hiện trong ngân sách này. Một trong những dự án mà tôi nghĩ tới trước tiên là dự án xây thêm một hồ thủy điện cho nhà máy thủy điện Bắc Hà giúp trữ nước, trữ nguồn năng lượng dư thừa từ pin mặt trời trong ngày để sau đó sử dụng nguồn năng lượng này vận hành tua bin nước trong hồ chứa vào buổi tối khi nhu cầu điện tăng cao. Đó là một ví dụ trong số những dự án mà chúng tôi sẽ cấp tín dụng và hiện giờ đang trong giai đoạn đánh giá, định hình.Ngoài ra phải kể đến sự hỗ trợ lớn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam để cải thiện mạng lưới điện bởi vì đây là một trong những vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt. Một phần lớn sản lượng điện, đặc biệt là điện tái tạo, được sản xuất ở miền Nam trong khi nhu cầu ở miền Bắc cực kỳ lớn và không được đáp ứng đầy đủ. Do đó phải cải thiện mạng lưới điện giữa miền Bắc và miền Nam để có thể phát triển toàn diện ngành sản xuất năng lượng tái tạo. Và đó cũng là lĩnh vực chúng tôi đang hợp tác với Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Đọc thêm :Kinh nghiệm xây metro của Pháp trong tuyến Nhổn-Ga Hà Nội Ngoài tài trợ công, Thỏa thuận JETP cũng có những cam kết của các doanh nghiệp và công ty tư nhân để đáp ứng những nhu cầu, trông đợi của Việt Nam. Trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp Pháp đã có mặt và tiếp tục cam kết. Tôi chỉ nêu ví dụ của EDF Renewables đang có dự án quan trọng về các loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trong tương lai có thể còn có nhiều dự án khác mà chúng tôi đã bắt đầu suy tính tùy theo chính sách của phía Việt Nam. Pháp có thể mang đến những giải pháp về phát triển lĩnh vực hydro và có thể một ngày nào đó nếu Việt Nam tính đến vấn đề điện hạt nhân.Trên đây là một chút phác họa về những dự án liên quan đến năng lượng nhưng cũng còn nhiều dự án khác để hướng tới phát triển nền kinh tế ít phát thải cacbon, như dự án di chuyển đô thị, ví dụ trường hợp tài trợ cho tàu điện ngầm ở Hà Nội với tuyến tàu số 3. Hoặc trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, chúng tôi có rất nhiều chương trình nghiên cứu được thực hiện với các đối tác Việt Nam để cải thiện và giảm khí thải cacbon nông nghiệp.Tiếp theo, chúng tôi làm việc với chính quyền Việt Nam để hỗ trợ triển khai công cụ lập mô hình kinh tế - việc vô cùng cần thiết. Và đây là trường hợp của dự án GEMMES, đã được thực hiện từ nhiều năm qua và giúp chính quyền đưa ra biện pháp, xây dựng chiến lược kinh tế để thích ứng tốt hơn trước những tác động của tình trạng nóng lên toàn cầu, cũng những hệ quả của hiện tượng này. Trên đây là một vài ví dụ về chính sách được Pháp cam kết đồng hành với Việt Nam.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet.
6/17/2024 • 9 minutes, 34 seconds
Việt Nam : Ai sẽ thay tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ?
“Tứ Trụ” Việt Nam tạm ổn sau những bất ngờ liên tiếp về nhân sự, đặc biệt với việc hai chủ tịch nước và một chủ tịch Quốc Hội lần lượt từ chức. Giới quan sát quốc tế lưu ý là những xáo trộn trong thượng tầng lãnh đạo không phải là chuyện lạ trước mỗi kỳ Đại Hội đảng nhưng lần này là “chuyện chưa từng có trong lịch sử”, công khai hơn và chưa có dấu hiệu chấm dứt vì còn 19 tháng nữa mới tới Đại Hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV với việc bầu tổng bí thư mới. Ai sẽ thay thế ông Nguyễn Phú Trọng trong cương vị tổng bí thư đảng ? Câu hỏi này được truyền thông quốc tế quan tâm đặc biệt kể từ khi Quốc Hội phê chuẩn thay đổi nhân sự vào tháng 05/2024 : ông Trần Thanh Mẫn làm chủ tịch Quốc Hội, bộ trưởng Công An Tô Lâm trở thành chủ tịch nước, bà Trương Thị Mai được cho thôi làm đại biểu Quốc Hội và các chức ủy viên bộ Chính Trị, ủy viên ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bà Mai là ủy viên bộ Chính Trị thứ 6 phải từ chức từ năm 2022 trong khuôn khổ chiến dịch chống tham nhũng.Tiêu chí ứng viên : Hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ trong bộ Chính TrịBộ Chính Trị hiện nay có 16 ủy viên, thay vì 18 như đầu Đại Hội lần thứ XIII của Đảng năm 2019, với 4 ủy viên mới được bầu bổ sung trong tháng 05/2024. Trong số này chỉ có 12 ủy viên có thể đáp ứng được yêu cầu tiên quyết là hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ 5 năm trong bộ Chính Trị để được đề cử làm tổng bí thư.Trong số này, hai vị trí trong “Tứ Trụ” được đề cấp nhiều nhất, gồm chủ tịch nước Tô Lâm, thủ tướng Phạm Minh Chính. Cả hai “ứng viên nổi bật” này đều sẽ quá tuổi nghỉ hưu theo quy định là 65 khi diễn ra Đại Hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, dự kiến vào tháng 1/2026 nên sẽ cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.Ông Tô Lâm được các nhà quan sát về chính trị Việt Nam cho là “đang trên đường hướng tới chiếc ghế tổng bí thư”, đặc biệt là vị trí bộ trưởng Công An đã được giao cho cộng sự thân tín của ông là thứ trưởng Lương Tam Quang, theo ghi nhận của trang The Diplomat ngày 07/06. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Futaba Ishizuka, Viện Kinh tế Phát triển JETRO, lưu ý trên trang Nikkei ngày 22/05 : “Việc ông Tô Lâm duy trì ảnh hưởng trong bộ Công An sẽ là một trong những yếu tố then chốt quyết định liệu ông có thể trở thành tổng bí thư hay không”.Trong loạt bài tổng hợp về “Sự thay đổi lãnh đạo ở Việt Nam” (Leadership change in Vietnam), giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales, cho rằng “việc ông Tô Lâm được bầu làm chủ tịch nước có thể được hiểu theo hai cách : ông được đưa lên vị trí chủ yếu mang tính hình thức và giữ chức đến cuối nhiệm kỳ vào tháng 05/2026. Hoặc chức chủ tịch nước có thể được coi là bàn đạp cho vị trí tổng bí thư”. Tuy nhiên, ông Tô Lâm “phải vượt qua được 5 cửa ải” :“Thứ nhất, thông thường tổng bí thư hiện tại đề cử người kế nhiệm. Tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội XIV, hiện do tổng bí thư Trọng đứng đầu, phải cân nhắc và phê chuẩn ông Tô Lâm làm ứng viên. Ông cũng phải được coi là “trường hợp đặc biệt” vì sẽ quá 65 tuổi theo quy định nghỉ hưu.Chặng thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTƯ) hiện nay phải phê chuẩn đề xuất của tiểu ban nhân sự hoặc đạt được đồng thuận về người kế nhiệm. Tiến trình này thường kéo theo nhiều cuộc thăm dò ngẫu nhiên trước khi bỏ phiếu chính thức. Ví dụ, năm 2020, tổng bí thư Trọng đề cử ông Trần Quốc Vượng nhưng ông Vượng đã không nhận được đa số phiếu và cuối cùng là đạt được đồng thuận để ông Trọng tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba. Tóm lại, ông Tô Lâm có hai hướng để đi đến thành công ở chặng hai. Hoặc việc đề cử ông được chấp nhận hoặc ông trở thành một ứng viên được đồng thuận.Chặng thứ ba, ông Tô Lâm phải nhận được đa số phiếu từ hơn 1.500 đại biểu Đại hội XIV để được bầu vào BCHTƯ mới. Chặng thứ tư, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm vào bộ Chính Trị. Và khi lựa chọn xong bộ Chính Trị, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm làm tổng bí thư”. (1)Tuy nhiên, vẫn theo giáo sư Carl Thayer, hành trình sẽ không hoàn toàn thuận lợi cho ông Tô Lâm vì ông không được ủng hộ cao, bằng chứng là trong cuộc bỏ phiếu đối với 44 chức danh do Quốc Hội bầu và phê chuẩn năm 2023, ông Lâm có số phiếu “tín nhiệm cao” khá thấp. Đảng Cộng sản Việt Nam ưu tiên đồng thuận nội bộ, trong khi ông Lâm lại là một ứng viên gây chia rẽ.Ứng viên nặng ký thứ hai cho chức tổng bí thư đảng là thủ tướng Phạm Minh Chính, một trong “Tứ Trụ” hiện vẫn đứng vững. Giáo sư Zachary Abuza, trường National War College (Mỹ), nhận định trên trang Al Jazeera ngày 22/05 rằng sau khi rời ghế bộ trưởng Công An, ông Lâm “khó có thể hạ được ông Phạm Minh Chính”.Một nhân vật mới cũng gây chú ý là đại tướng Lương Cường, vừa được bổ nhiệm tham gia Ban Bí thư và chức vụ Thường trực Ban Bí thư. Dường như ông Tô Lâm đã không gây được sức ép để trợ lý thân cận của ông là thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc thay thế vị trí của bà Trương Thị Mai. Theo giáo sư Carl Thayer, việc bổ nhiệm tướng Lương Cường “nên được xem như một dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của một liên minh chống lại sự trỗi dậy của ông Tô Lâm hơn là một dấu hiệu cho thấy sức mạnh ngày càng tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam”.“Ông Lương Cường là ủy viên BCHTƯ từ Đại hội XI. Ông đã hoàn thành nhiệm kỳ đầu ở bộ Chính Trị, đây là điều kiện tiên quyết cho vị trí tổng bí thư. Ông Cường sinh năm 1957 ở tỉnh Phú Thọ, miền bắc Việt Nam, cũng là một lợi thế chính trị. Tuy nhiên, ông sẽ 69 tuổi khi diễn ra Đại hội XIV, có nghĩa là nhiều hơn 4 tuổi theo quy định nghỉ hưu. Cho nên ông cũng cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.Về lý thuyết, ông Lương Cường có nhiều cơ hội trở thành tổng bí thư tương lai. Nhiều tin đồn cho rằng quân đội đang gây sức ép để thanh tra tập đoàn Xuân Cầu (CTCP Xuân Cầu Holdings với công ty TNHH Đầu tư Địa ốc Thành phố (CityLand)) do em trai của ông Tô Lâm điều hành”. (2)Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yosof Ishak Institute, Singapore), cũng cho rằng tướng Lương Cường có thể là một một ứng viên đáng chú ý, nhất là khi ông được “lịch sử ủng hộ”, ý muốn nói đến trường hợp ông Lê Khả Phiêu nhậm chức tổng bí thư từ vị trí thường trực bộ Chính Trị - tương đương với vị trí thường trực ban bí thư hiện nay. Trong khi đó, Việt Nam chưa từng có tổng bí thư nào xuất thân từ ngành công an.Ngoài ra, theo giáo sư Carl Thayer, căn cứ vào việc bổ nhiệm nhân sự mới đây, có thể có thêm hai ứng viên tiềm năng khác là Trần Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn.“Cả hai sẽ chưa đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và đều có một nhiệm kỳ 5 năm bắt buộc ở bộ Chính Trị. Ông Mẫn vừa được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Vị trí này từng là bàn đạp cho cả hai nhà lãnh đạo đảng là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Ông Tú, thuộc nhánh Nghệ An, là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch chống tham nhũng”. (3)Tuy nhiên, giáo sư Carl Thayer cũng lưu ý đến một tiêu chí “ngầm” khác là nguyên quán của ứng viên cho chức tổng bí thư, thường là người miền Bắc.Tổng bí thư đương nhiệm đề cử ứng viên thay thếThông thường, tổng bí thư đương nhiệm là người đề cử tên người kế nhiệm. Giám đốc nghiên cứu Benoit de Tréglodé, trường Quân sự Pháp, nhận định với RFI Tiếng Việt rằng có lẽ ông Trọng chưa tìm ra được người kế nhiệm vì đích thân ông làm trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại Hội XIV. Tuy nhiên, tổng bí thư không phải là người toàn quyền quyết định vì đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể. Thêm vào đó, việc ông Thưởng bị buộc từ chức chủ tịch nước, trong khi ông được coi là người được tổng bí thư che chở, cho thấy ảnh hưởng của ông Trọng đã bị suy giảm phần nào. Giáo sư Carl Thayer nhận định :“Cần nhớ lại rằng ông Nguyễn Phú Trọng dự Đại hội đảng XIII vào đầu năm 2021 và đề cử ông Trần Quốc Vượng làm người kế nhiệm. Nhưng trong cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương tháng 11/2020, ông Vượng đã không hội đủ được đa số ủng hộ và đã bỏ cuộc. Do đó, ông Trọng không phải là người có quyền lực không thể tranh cãi trong hệ thống chính trị Việt Nam.Tại Hội nghị Trung ương 8 vào tháng 10 năm ngoái (2023), kế hoạch cho Đại hội đảng lần tới đã được triển khai. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu tiểu ban nhân sự, phụ trách lựa chọn và bổ nhiệm những ứng viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới sẽ được đưa ra bỏ phiếu tại Đại hội XIV vào đầu năm 2026. Ông Trọng đã chịu nhiều phản ứng tiêu cực vì cách tiếp cận mang tính độc đoán hoặc thiếu đồng thuận.Vấn đề sức khỏe của ông hiện nay cũng đánh dấu chấm dứt thời kỳ giữ chức tổng bí thư của ông. Những người được lợi hoặc những người đã tận sử dụng chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng, hiện rất chú ý đến việc duy trì ảnh hưởng của họ trong những tháng tới. Bàn tay của ông Trọng suy yếu vì ông Thưởng phải từ chức. Nếu ông Trọng muốn bảo vệ di sản chống tham nhũng và xây dựng đảng, từ giờ ông sẽ phải mặc cả với những “nhóm lợi ích” khác”. (4)Những nỗ lực chống tham nhũng của tổng bí thư Trọng đáng được hoan nghênh nhưng giáo sư Carl Thayer cũng cho rằng ông Trọng phải cáng đáng trách nhiệm trong việc giám sát tiến trình lựa chọn nhà lãnh đạo sau này bị phát hiện là “giống như những trái táo thối”. Việc ông đứng đầu tiểu ban nhân sự cũng có thể được hiểu là ông muốn chuộc lỗi để lựa chọn khắt khe ứng viên cho các vị trí lãnh đạo sắp tới. Gần 20 tháng trước kỳ Đại Hội có thể được coi là giai đoạn hỗn loạn nếu ông Tô Lâm tìm cách lãnh đạo Đảng nhưng lại bị những người không muốn ông thăng tiến phản đối. Cuộc đấu tranh nội bộ chưa có hồi kết, rất có thể sẽ tiếp tục cho tới Đại Hội lần thứ XIV của Đảng.*****(1) Background Brief (Tóm tắt tình hình), Thayer Consultancy, ngày 19/05/2024.(2) Background Brief, ngày 20/05/2024.(3) Background Brief, ngày 20/05/2024.(4) Background Brief, ngày 21/05/2024.
6/10/2024 • 8 minutes, 23 seconds
Việt Nam "mơ" trình độ công nghệ quân sự Bắc Triều Tiên nhưng không đánh đổi kinh tế
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm 2018 đến đầu 2019 với đỉnh điểm là chuyến công du Hà Nội của lãnh đạo Kim Jong Un và họp thượng đỉnh với tổng thống Mỹ Donald Trump. Việt Nam thường xuyên được nhắc đến như một điển mẫu về mở cửa để Bình Nhưỡng có thể hướng theo. Tuy nhiên, trên phương diện quân sự và công nghiệp quốc phòng, Bắc Triều Tiên bỏ xa Việt Nam. Năm 2023, Hà Nội không nhập khẩu vũ khí dù có ngân sách mua sắm hàng năm khoảng 1 tỉ đô la. Nga, nguồn cung lớn nhất của Việt Nam, đang vướng vào chiến tranh Ukraina và bị cấm vận. Israel, một nhà cung cấp khác, dù không bán thiết bị quân sự cho Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đang phải tập trung khí tài đối phó với lực lượng Hamas ở dải Gaza. Dù thực hiện chính sách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí nhưng dường như Việt Nam gặp trở ngại trong đàm phán với các đối tác mới. Trong khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng nội địa mới chỉ sản xuất được những loại vũ khí cơ bản, chưa đủ trình độ để sản xuất các loại khí tài cần công nghệ lõi.Những thành tựu vượt bậc về quân sự và công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên liệu có phải là một mô hình để Việt Nam theo đuổi ? Bình Nhưỡng sẵn sàng hy sinh kinh tế để củng cố quốc phòng. Trong khi Việt Nam không có chủ trương như vậy. Trên đây là một trong số những nhận định của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam từ lâu được đề cập là nước hỗ trợ lương thực cho Bắc Triều Tiên, nhưng về mặt quốc phòng và công nghiệp quân sự, Bắc Triều Tiên dường như là mô hình để Việt Nam học hỏi ?Nguyễn Thế Phương : Nhận định này có mặt đúng nhưng có mặt không đúng lắm, theo quan điểm cá nhân của tôi. Quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên sẽ phải xuất phát từ nhu cầu của cả hai bên : Việt Nam cần gì ? Và Bắc Triều Tiên cần gì ? Thực tế mà nói, mối quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên không thực sự suôn sẻ như những gì báo chí đưa ra, từ lịch sử cho tới nay, có nhiều khúc mắc và khúc khuỷu lắm. Đặc biệt khi mà Bắc Triều Tiên có một thể chế tương đối là toàn trị hơn Việt Nam.Điểm thứ hai, mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên đáng học hỏi nhưng phải xem là cái mô hình đó được xây dựng dựa trên sự đánh đổi nào. Ở đây, Bắc Triều Tiên đánh đổi kinh tế với quốc phòng, hy sinh toàn bộ thiết chế chính trị của họ và tập trung mọi nguồn lực vào quốc phòng. Và rõ ràng sự đánh đổi ở đây, mọi người đều biết là thực trạng kinh tế Bắc Triều Tiên như thế nào. Và Việt Nam rõ ràng không thể áp dụng một cách máy móc tư duy dồn toàn bộ nguồn lực quốc gia vào quốc phòng được. Rõ ràng là khi dồn toàn bộ tiền cho quốc phòng thì chắc chắn sẽ phải đạt được một cái thành tựu nào đó, không đạt được thành tựu thì mới là có vấn đề.Nhưng mô hình Việt Nam không phải như vậy. Việt Nam không phải là một mô hình toàn trị và coi quốc phòng như là một nền tảng để quản lý quốc gia. Còn Bắc Triều Tiên, vì lịch sử, vì vấn đề địa lý, tư duy, chính trị quốc tế nên họ đã lựa chọn đặt quân đội trên hết. Và chính sách « tiên quân » có từ thời Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) cho tới bây giờ là « song tiến » của Kim Jong Un, tức là vừa kinh tế vừa quốc phòng nhưng thực ra quốc phòng vẫn nổi trội hơn.Mỗi một mô hình có điểm mạnh và điểm yếu và có vấn đề là họ hy sinh cái gì để họ đạt được mục đích. Việt Nam hiện nay không thể đi theo mô hình như vậy được, mà mô hình của Việt Nam là độc nhất, chỉ phù hợp với đặc trưng kinh tế, xã hội chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam ở thời điểm hiện tại khi mà nguồn lực của Việt Nam phải được dành cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội chứ không chỉ dành hoàn toàn cho cái gọi là « phát triển quốc phòng » được.Nhưng nói như thế không phải là Việt Nam không có những học hỏi nhất định. Việt Nam vẫn sẽ có một số học hỏi nhất định về trao đổi đoàn, về mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên. Nhưng thực tế mà nói, bởi vì mô hình khác nhau, ưu tiên khác nhau, nên theo cá nhân tôi, thì sự học hỏi đó không cao. Bởi mô hình của Việt Nam hiện tại, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, Việt Nam học hỏi từ hai nước là chủ yếu : Trung Quốc và Nga. Đó là các mô hình lưỡng dụng, theo kiểu tư nhân tham gia vô mô hình đó và toàn bộ « tổ hợp công nghiệp quốc phòng » được đặt trong một mô hình kinh tế thị trường. Bắc Triều Tiên không có nền kinh tế thị trường đó.Cho nên từ Bắc Triều Tiên có thể học hỏi việc họ phát triển cụ thể ở một số loại vũ khí, khí tài, ví dụ như là quá trình họ phát triển tàu ngầm. Việt Nam hiện nay đang cố gắng xây dựng một hạm đội tàu ngầm từ lớn tới nhỏ, trong đó mô hình xây dựng tàu ngầm mini là mô hình của Bắc Triều Tiên hoặc là một số kỹ thuật hoặc là một số loại vũ khí, ví dụ các loại tên lửa mang tính chiến lược thì Việt Nam cũng kế thừa được kinh nghiệm phát triển tên lửa của Bắc Triều Tiên, tất nhiên là từ rất lâu rồi, bây giờ thì không có chuyện đó bởi vì có liên quan đến cấm vận. Nhưng rõ ràng là sẽ có thể học hỏi, nhưng cái sự học hỏi đó nói chỉ mang tính cục bộ và hạn chế rất nhiều bởi vì về mặt thiết kế mô hình kinh tế chính trị, mô hình quản trị quốc gia thì Việt Nam và Bắc Triều Tiên hoàn toàn khác nhau.RFI : Vũ khí hệ Nga chiếm khoảng 80% trong kho vũ khí Việt Nam. Năm 2023, Việt Nam không mua được linh kiện hoặc vũ khí từ Nga do Matxcơva bị cấm vận. Từ cuối năm ngoái, Bình Nhưỡng và Nga thắt chặt quan hệ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng. Bắc Triều Tiên được cho là sản xuất vũ khí cho Nga và dường như được Nga chuyển giao công nghệ. Liệu Bắc Triều Tiên, dù vẫn bị cấm vận, có trở thành một kênh trung gian cho Việt Nam tiếp cận công nghệ vũ khí của Nga ?Nguyễn Thế Phương : Điều này ở thời điểm hiện tại là khó có khả năng xảy ra bởi vì liên quan rất nhiều đến việc cả Nga và Bắc Triều Tiên bị cấm vận. Do đó việc Việt Nam có một mối quan hệ nào đó với Bắc Triều Tiên và với Nga có liên quan đến vũ khí là vấn đề hết sức nhạy cảm và sẽ tác động đến uy tín quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là ở Liên Hiệp Quốc. Cho nên khả năng Việt Nam tiếp cận vũ khí hay linh kiện vũ khí của Nga thông qua Bắc Triều Tiên là khá thấp. Đó là lý do thứ nhất, liên quan đến uy tín quốc tế, tới cấm vận.Lý do thứ hai là không nhất thiết phải thông qua Nga mới có các linh kiện của Nga. Bởi vì hiện nay, Việt Nam có mối quan hệ an ninh quốc phòng khá tốt đẹp với những quốc gia cũng sử dụng linh kiện của Nga và Việt Nam hoàn toàn có thể mua lại những linh kiện thông qua các quốc gia đó. Ví dụ Ấn Độ là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp quốc phòng cũng như quân đội sử dụng vũ khí của cả hai hệ : Nga và Liên Xô trước đây và của cả phương Tây và Mỹ. Do đó, với quy mô quân đội hơn 1 triệu người thì vũ khí cũng như phụ tùng linh kiện vũ khí của Nga trong kho của quân đội Ấn Độ không phải là thiếu. Và ngoài Ấn Độ còn có các quốc gia Đông Âu.Tiếp theo, Nga cũng đã chuyển giao giấy phép một số loại kinh kiện phụ tùng cho Ấn Độ, có nghĩa là cùng một loại linh kiện phụ tùng đó, thay vì Nga sản xuất thì Ấn Độ sản xuất. Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp từ Ấn Độ, chuyển giao giấy phép sản xuất vũ khí hoặc phụ tùng cho các nước khác. Không chỉ có Ấn Độ mà còn có Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước mà nền công nghiệp quốc phòng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quốc phòng của Nga.Cho nên, xét tới những khả năng như vậy, có thể thấy việc Việt Nam thông qua Bắc Triều Tiên để tiếp cận vũ khí hoặc linh kiện sản xuất từ Nga tạo ra rủi ro nhiều hơn lợi ích. Rủi ro lớn nhất vẫn là rủi ro bị ảnh hưởng bởi cấm vận, bị ảnh hưởng về việc uy tín quốc tế của Việt Nam bị giảm sút. Nhưng quan trọng hơn nữa là cấm vận. Vì rủi ro khá là cao nên khả năng đó khá là thấp. Mặc dù đã có thảo luận nội bộ về vấn đề này nhưng khả năng đó khó xảy ra và hầu như không xảy ra ở thời điểm hiện tại. Và khả năng làm việc trực tiếp với Nga đã nổi lên từ cuối năm ngoái (2023). Việt Nam không cần thông qua Bắc Triều Tiên để là việc với Nga mà Việt Nam sẽ làm việc trực tiếp với Nga.RFI : Trong thời gian gần đây, Bình Nhưỡng đạt nhiều tiến bộ hơn về công nghệ tên lửa đạn đạo, như chúng ta thấy qua những vụ thử gần đây và được cho là nhờ Nga giúp đỡ. Liệu thông qua Bắc Triều Tiên, Việt Nam có thể tiếp cận được những công nghệ tiên tiến đó không, theo mô hình trao đổi hợp tác đôi bên cùng có lợi ? Nguyễn Thế Phương : Về mặt lý thuyết, đi đường vòng như vậy là có thể nhưng về mặt thực tế thì tốn cả thời gian, công sức và tiền bạc. Nhanh nhất, hiệu quả nhất, đỡ tốn thời gian nhất vẫn là Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga bởi vì hai nước là đối tác chiến lược toàn diện, có mối quan hệ an ninh quốc phòng mật thiết và truyền thống. Hiện nay công nghệ mà Việt Nam quan tâm nhất của Nga là công nghệ hạt nhân, thì Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga, không cần thông qua ai. Nên xét về lợi ích giá trị mang lại và mất đi, quan điểm riêng của tôi vẫn là làm trực tiếp với Nga sẽ nhanh hơn và đỡ tốn hơn là đi vòng.Thứ hai, quan hệ song phương hiện nay giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không được tốt như trước đây. Phải khẳng định như vậy ! Quan hệ chỉ ở mức ngoại giao, tạm gọi là « thân thiết » về mặt ý thức hệ, cũng như là việc Việt Nam làm trung gian trong một số vấn đề chính trị, ví dụ giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc hoặc là giữa Nhật Bản và Bắc Triều Tiên hoặc Mỹ và Bắc Triều Tiên. Còn về mặt thực chất, hầu như mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không tiến triển gì nhiều trong mấy thập niên trở lại đây. Cho nên khả năng thông qua bắc Triều Tiên để tiếp cận công nghệ, về mặt lý thuyết, là có, nhưng rất khó xảy ra. Với tình hình hiện tại, với mối quan hệ Việt-Triều, với mối quan hệ Việt-Nga hiện tại thì việc đó khó xảy ra.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc.
6/3/2024 • 9 minutes, 34 seconds
Được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường: Không đơn giản đối với Việt Nam
Mặc dù đã trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ, từ hơn hai thập niên qua, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các quốc gia mà Hoa Kỳ xem là những nền kinh tế phi thị trường. Tổng cộng danh sách này hiện có 12 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác cũng thuộc Liên Xô cũ. Hàng hóa nhập từ những nước bị xem là nền kinh tế phi thị trường vẫn bị Hoa Kỳ áp thuế “chống phá giá”. Trong thương mại quốc tế, bị xem là phá giá khi hàng xuất khẩu của một quốc gia cố tình được định giá thấp hơn giá trong nước, và như vậy là gây bất lợi cho các ngành công nghiệp của quốc gia nhập khẩu hàng. Thuế “chống phá giá” chủ yếu nhằm bù đắp cho sự chênh lệch giữa giá hàng được xuất khẩu và giá bình thường của hàng đó.Trong thời gian gần đây, Hà Nội đã thúc giục chính quyền tổng thống Joe Biden nhanh chóng công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, bởi vì đối với họ, Việt Nam đã thực hiện đủ những cải cách kinh tế để xứng đáng được hưởng quy chế đó. Hơn nữa, nhân chuyến viếng thăm Hà Nội của tổng thống Biden tháng 9 năm ngoái, hai nước đã nâng quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, tức là Việt Nam đã xem Hoa Kỳ ngang hàng với Trung Quốc và Nga. Đối với Hà Nội, việc Washington vẫn xem Việt Nam là “nền kinh tế phi thị trường” gây cản trở cho việc tăng cường quan hệ giữa hai nước, trong khi những nước lớn khác như Nhật Bản, Úc, Anh Quốc và Canada đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Vài ngày sau khi tổng thống Biden đặt chân đến Việt Nam, Hà Nội đã nộp đơn xin Hoa Kỳ cấp quy chế kinh tế thị trường và một tháng sau đó, bộ Thương Mại Mỹ bắt đầu tiến trình xem xét dỡ bỏ Việt Nam khỏi danh sách các quốc gia bị áp thuế phá giá. Theo quy định của phía Mỹ, bộ Thương Mại có tổng cộng 270 ngày, tức là đến tháng 7 năm nay, để hoàn tất việc xem xét và đưa ra kết luận.Được xem là kinh tế thị trường sẽ mang lại những thay đổi nào cho kinh tế Việt Nam? Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội ngày 21/05/2024, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết: “Hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nếu như Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là kinh tế thị trường thì rất nhiều mặt hàng sẽ có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất rất thấp và điều sẽ kích thích mối quan hệ kinh tế giữa hai nước và thúc đẩy luồng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, có lợi cho cả hai bên.Nếu được công nhận là nền kinh tế thị trường và với việc đầu tư của các công ty Hoa Kỳ vào công nghiệp bán dẫn, thì điều này sẽ mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi trong việc phát triển xuất khẩu, cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.”Như vậy là nếu thoát khỏi thuế chống bán phá giá, hàng hóa của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường Mỹ. Ngày 08/05/2024, bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã tổ chức phiên điều trần trực tuyến về việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, trong đó họ đã nghe những lập luận của cả bên chống và bên ủng hộ. Quyết định công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường cho tới nay vẫn gặp sự phản đối của các nhà sản xuất thép và các nhà nuôi nuôi tôm Mỹ, cũng như một số nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ, tuy được các tập đoán ngành bán lẻ và các tập đoàn những ngành khác ủng hộ.Theo hãng tin Reuters, trong cuộc điều trần hôm đó, chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN, ông Ted Osius, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, tuyên bố: “Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường rồi, vì đã đáp ứng tiêu chuẩn chủ chốt đó là khả năng chuyển đổi tiền tệ”.Nhưng Liên minh Tôm miền Nam gồm các ngư dân và nhà chế biến tôm Hoa Kỳ cho biết họ phản đối việc cấp quy chế kinh tế thị trường, vì theo họ, vẫn còn các rào cản về quyền sở hữu đất đai của Việt Nam, luật lao động của Việt Nam còn yếu kém và thuế đánh vào tôm ở Việt Nam thấp hơn, gây tổn hại cho các thành viên của Liên minh. Việc nâng cấp quy chế của Việt Nam cũng gặp phải sự phản đối đáng kể tại Quốc Hội Hoa Kỳ, với 8 thượng nghị sĩ và 31 dân biểu Hạ viện đưa ra lập luận tương tự với bộ trưởng Thương Mại Gina Raimondo. Theo họ, việc cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam sẽ hỗ trợ các công ty nhà nước Trung Quốc đã đầu tư nhiều vào Việt Nam, bằng cách giúp họ lách thuế nhập của Mỹ dễ dàng hơn.Roy Houseman, đại diện của liên minh các nhà sản xuất thép lớn của Mỹ, United Steelworkers Union (USW), nói thêm rằng thay đổi quy chế cho Việt Nam sẽ "làm xói mòn cơ sở sản xuất trong nước của chúng ta, làm suy yếu khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ... và củng cố vai trò của Việt Nam như một kênh trung chuyển hàng hóa Trung Quốc được buôn bán không công bằng." Đối với chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, các tiêu chuẩn do Hoa Kỳ đặt ra để công nhận là kinh tế thị trường còn quá xa so với tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam:“Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì mối quan hệ đã phát triển tốt đẹp và giữa hai nước hiện nay đang có quan hệ hợp tác chiến lược. Riêng về kinh tế, Hoa Kỳ có những tiêu chuẩn về nền kinh tế thị trường, trong đó đòi hỏi phải có đồng tiền được chuyển đổi đầy đủ, tức là trong bất kỳ tình huống nào, trong nước và ngoài nước, đồng tiền đều có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ.Một điều kiện nữa là giữa người sử dụng lao động và người lao động phải được tự do thỏa thuận tiền lương, rồi thì phải có công đoàn độc lập, v.v…Đó là những tiêu chuẩn mà hiện nay còn xa so với những tiêu chuẩn mà Việt Nam đang áp dụng, do điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, tôi thấy đây là một cuộc điều tra, xem xét khó khăn.Hoa Kỳ dự kiến đến tháng 7 sẽ có tuyên bố kết luận về điều này. Tôi hy vọng là việc xem xét này sẽ không gây cản trở cho mối quan hệ hợp tác kinh tế, vì hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam.” Theo Reuters, trong cuộc điều trần hôm 08/05, các luật sư đại diện Việt Nam khẳng định rằng việc tăng lương ở Việt Nam là kết quả của thương lượng giữa người lao động với chủ công ty. Nhưng tổ chức bảo vệ nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch ( HRW ) cho biết Việt Nam vẫn không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về quyền lao động để có thể được xem là nền kinh tế thị trường. Theo HRW, thật sai lầm khi nói rằng công nhân Việt Nam có thể tự thành lập công đoàn, hoặc nói rằng tiền lương của họ là kết quả của thương lượng tự do.Theo ông Lê Đăng Doanh, tiêu chuẩn liên quan đến công đoàn độc lập có lẽ sẽ là trở ngại lớn nhất cho việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường: “Việt Nam chưa có trả lời về việc có thay đổi quy chế hiện nay hay không. Trong nước chưa thấy có sáng kiến hay đề nghị nào về việc xem một Luật Công đoàn, trong đó có công đoàn độc lập.Vì vậy tôi nghĩ là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cần tiếp tục có những trao đổi sâu sắc và đầy đủ để hai bên hiểu biết nhau đầy đủ hơn. Hiện nay Việt Nam quan niệm công đoàn là phải do đảng, cho nên hoạt động của công đoàn về nhiều mặt rất là năng động, nhưng đều dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cơ quan đảng. Ngay cả công đoàn ở các doanh nghiệp tư nhân cũng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp đó. Cho nên Việt Nam cũng yêu cầu thành lập các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài”.Ngoài hai tiêu chuẩn về khả năng chuyển đổi tiền tệ và về lao động, quốc gia muốn được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường còn phải cho phép liên doanh hoặc hình thức đầu tư nước ngoài khác. Hoa Kỳ cũng sẽ xem xét chính phủ của nước đó có sở hữu hay kiểm soát các phương tiện sản xuất hay không, cũng như có kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, giá và quyết định sản lượng hay không. Một tiêu chuẩn khác có thể là nhân quyền ở Việt Nam. Vấn đề là chính phủ Hoa Kỳ xem xét cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam trong bối cảnh đang diễn ra chiến dịch vận động tranh cử cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 11. Theo hãng tin Reuters, tổng thống Joe Biden đang muốn thu hút lá phiếu từ giới lao động, nhất là những công nhân ngành thép ở Pennsylvania, được xem là một bang dao động ( swing state ) có vai trò quan trọng đối với kết quả bầu cử.Ông Biden gần đây đã phản đối kế hoạch của hãng thép Nhật Bản Nippon Steel mua lại hãng US Steel ở Pittsburgh, đồng thời kêu gọi phải đánh thuế cao hơn với thép nhập khẩu từ Trung Quốc.Ấy là chưa kế đến khả năng cựu tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng sau cuộc bầu cử tháng 11 và điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh:“Theo những thông tin mà tôi được biết, nếu ông Trump thắng cử, ông sẽ lập lại những yêu cầu, những lời hứa của ông và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Tức là có thể ông Trump sẽ đánh thuế và sẽ xem xét lại những cam kết mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được trong thời tổng thống Biden.”
5/27/2024 • 9 minutes, 16 seconds
Tác động của kênh đào Funan Techo: Tranh cãi trong giới chuyên gia Việt Nam
Kể từ khi chính phủ Cam Bốt công bố kế hoạch xây dựng kênh đào Funan Techo ( Phù Nam Techo ), chính phủ Việt Nam và một số chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về tác động của dự án này đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, giới chuyên gia Việt Nam lại không đồng nhất ý kiến về tác động thật sự của kênh đào Funan Techo, nhất là đối với lưu lượng của các con sông tại vùng đồng bằng này. Về mặt giao thông, với kênh đào này, dự án 1,7 tỷ đôla do Trung Quốc tài trợ, hàng hóa từ thủ đô Phnom Penh sẽ được vận chuyển thẳng đến các cảng trên Vịnh Thái Lan, không đi vòng qua Việt Nam nữa. Theo thông tin từ phía Cam Bốt, kênh đào Funan Techo sẽ có chiều dài khoảng 180 km, đi qua 4 tỉnh ( Kandal, Takeo, Kampot và Kep) với tổng dân số sinh sống hai bên ven sông là 1,6 triệu người. Dự án cũng sẽ xây dựng 3 âu thuyền để duy trì mực nước, 11 cây cầu và 208 km đường mới kèm theo.Theo thiết kế, kênh Funan Techo sẽ có chiều rộng 100m ở thượng nguồn, 80m ở hạ lưu và có độ sâu 5,4m. Dự kiến kênh đào sẽ được khởi công vào khoảng cuối năm 2024 và hoàn thành vào năm 2027, với tổng lượng hàng hóa lưu thông qua tuyến đường thủy mới này được ước lượng là 7 triệu tấn/năm.Chính phủ Hà Nội đã chính thức lên tiếng bày tỏ quan ngại về tác động của kênh đào Funan Techo đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về ý kiến của các chuyên gia, theo báo chí trong nước, tại hội nghị tham vấn về Dự án kênh đào Funan Techo, do Ủy ban sông Mekong Việt Nam (VNMC) tổ chức ngày 23/4 ở Cần Thơ, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Giảng viên Cao cấp của Khoa Môi trường, Trường Đại học Cần Thơ, lưu ý là báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt (CNMC) chỉ đề cập đến chức năng của kênh Funan Techo như một thủy lộ hay kênh giao thông thủy, mà lại không đề cập đến các chức năng khác, cụ thể không nói rõ là kênh có phục vụ tưới tiêu, sản xuất nông nghiệp, lấy nước sinh hoạt hay không và mức độ khai thác thế nào.Theo ông Lê Anh Tuấn, kênh Funan Techo sẽ liên quan đến dòng chính sông Mekong và có tác động đến đồng bằng sông Cửu Long, lượng nước của sông Mekong về đồng bằng sông Cửu Long có thể giảm nghiêm trọng hơn những năm khô hạn. Bên cạnh đó, kênh đào Funan Techo được cho là sẽ có tác động về hệ sinh thái, môi trường và tính đa dạng sinh học của vùng này.Cũng tại hội nghị nói trên, ông Phạm Hồ Quốc Tuấn, Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, nhắc lại, từ Phnom Penh, dòng chảy sông Mê Kông có phân lưu sông Bassac ( Hậu Giang, theo tên Việt Nam ), phân chia dòng chảy từ thượng nguồn về hạ lưu. Khi kênh đào Funan Techo đi vào hoạt động, dòng chảy sông Mekong sẽ phân chia thêm một lượng nước về sông Bassac, làm giảm dòng chảy sông Mekong về hạ lưu (Tiền Giang ), dẫn đến khả năng là nguy cơ thiếu hụt lượng nước trong mùa khô ngày càng nghiêm trọng hơn.Tuy nhiên, một số chuyên gia khác như giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Nam Cần Thơ, thì không tin vào kịch bản nói trên:“Theo tôi và một số anh em trong ngành thủy lợi, mình không nên lo lắng nhiều quá, tại vì sông Mekong chảy từ Tây Tạng qua Vân Nam ( Trung Quốc ), Lào, Thái Lan, Cam Bốt, rồi mới đổ vào Việt Nam. Nếu có dịp đi dọc theo sông Mekong ta sẽ thấy dòng sông này, sau Lào, khi xuống tới đoạn Cam Bốt qua Việt Nam, có những khúc không đi tàu được, vì nhiều đoạn chỉ là ghềnh thác hoặc đá sỏi. Cho nên, trong thực tế, những nước phía trên Việt Nam không tận hưởng được nước như tại đồng bằng sông Cửu Long của mình, vì mặt đất ruộng của họ cách mặt nước của dòng sông khá là xa, có nơi tới mười mấy, hai chục mét, thành ra không cách chi mà lấy nước để mà tưới được.Mực nước sông Mekong khi vào Việt Nam thì cách mặt đất ruộng chỉ khoảng 1 mét, cho nên mình hưởng nước này gần như trọn vẹn hơn các nước phía trên. Sông Cửu Long khi xuống tới Việt Nam thì dòng Tiền Giang trở nên rất là mạnh, trong khi Hậu Giang chảy rất yếu. Do đó, thiên nhiên cũng tạo ra sông Vàm Nao, tách ra từ Tiền Giang, đổ xuống dưới,chảy vào Hậu Giang. Cụ thể là trong mùa mưa, mùa lụt, lưu lượng của nước từ Tiền Giang tràn qua phía Hậu Giang, tạo thành sông Vàm Nao.Trước năm 1974, lưu lượng của sông Cửu Long đo tại Kratie bên Cam Bốt trong mùa nước lớn là khoảng 40.000 m3/giây, nhưng tới mùa nắng, mùa khô thì còn tối đa là 2.000 m3/giây. Nhưng sau năm 1974 cho tới những năm gần đây, lưu lượng mùa khô tăng lên thành 2.300 m3/giây, chứng tỏ là nó có nhiều nước hơn trong lúc này. Tuy nhiên, khi vào đến Phnom Penh, khi Mekong chảy thành hai đoạn, thì kênh đào Funan Techo sẽ lấy nước từ Hậu Giang, tức là sông yếu hơn của Mekong. Thành ra, những người lo lắng, bi quan thì nói là nó sẽ lấy nước đồng bằng sông Cửu Long ít nhất là từ 50% đến 70%, thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ khô hạn hết. Tôi và một số chuyên gia về thủy lợi thì không tin điều đó, tại vì sông Tiền Giang từ xưa đến nay luôn luôn là rất mạnh. Bây giờ dù phía Cam Bốt có lấy nước đi nữa, thì nó cũng còn ở phía trên, còn bên mình thì nước chảy xuống những cao độ thấp hơn bên đó, cho nên mình vẫn có thể hưởng được dòng Tiền Giang, rồi từ Tiền Giang qua sông Vàm Nao để đổ vào hệ thống Hậu Giang.”Thật ra thì một số chuyên gia lo lắng là vì đối với họ, báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt về kênh đào Funan Techo “chưa phân tích đầy đủ, chưa thể hiện hết các mặt của sự tác động”. Vì thế, họ yêu cầu phía Cam Bốt chia sẻ minh bạch các thông tin chi tiết về dự án bao gồm cả báo cáo khả thi và kết quả đánh giá tác động môi trường của dự án. Họ cũng đề nghị Ủy hội sông Mekong quốc tế cần hỗ trợ các quốc gia tiến hành một nghiên cứu chung về tác động xuyên biên giới của dự án tới tất cả các lĩnh vực và đề xuất biện pháp giảm thiểu tác động.Riêng đối với giáo sư Võ Tòng Xuân, phía Cam Bốt cần phải cung cấp thêm một số thông tin để có thể đánh giá tác động của kênh đào Funan Techo đối với lưu lượng các con sông ở đồng bằng sông Cửu Long:“Thật sự lưu lượng nước lấy từ sông Hậu Giang bên phía Cam Bốt để cung cấp cho kênh đào này không quá nhiều như là nhiều người đang lo. Trái lại, nó sẽ lấy vừa phải, bởi vì bản thân dòng nước này đã yếu rồi. Bây giờ mình sẽ hỏi thêm là họ có đào thêm một con kênh mới để nối Tiền Giang với Hậu Giang để đưa xuống con kênh này hay không, thì mình sẽ biết rõ ràng hơn, chắc chắn hơn là họ lấy bao nhiêu nước. Đến chừng đó mình mới dám kết luận là kênh Funan Techo có làm hại cho lượng nước xuống đồng bằng sông Cửu Long của mình hay không? Bây giờ mình chỉ mới nói theo cảm tính thôi, chứ còn số liệu cụ thể thì chưa có"Về phía chính phủ Việt Nam, trong cuộc họp báo ngày 05/05/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng đã ra lời kêu gọi với phía Cam Bốt: “Chúng tôi mong rằng Cam Bốt tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và các nước trong Ủy hội sông Mekong chia sẻ thông tin, đánh giá đầy đủ tác động của dự án này đối với nguồn nước, tài nguyên nước và môi trường sinh thái của khu vực tiểu vùng sông Mekong" .Đáp lại những quan ngại nói trên, chính phủ của thủ tướng Hun Manet vẫn không thay đổi lập trường, đó là họ sẽ tiến hành xây dựng kênh đào Funan Techo mà không cung cấp thông tin chi tiết về dự án này cho phía Việt Nam. Theo nhật báo Khmer Times, trong một cuộc họp báo với các phóng viên trong nước vào ngày 07/05, phó thủ tướng Sun Chanthol khẳng định dự án kênh đào "chỉ cần 5 mét khối mỗi giây (m3/s), tương đương 0,053% lưu lượng sông Mekong", tức là sẽ không gây tình trạng thất thoát nước. Ông còn khẳng định khi đi vào hoạt động, kênh đào "sẽ góp phần giảm nhẹ lũ lụt ở miền Nam Việt Nam".Ông Chanthol cho biết đã tham khảo Hiệp định Mekong năm 1995, quy định rằng các hoạt động ảnh hưởng đến các nhánh của sông Mekong, bao gồm cả Tonle Sap, phải được “thông báo” cho Ủy ban Hỗn hợp. Cam Bốt đã thông báo cho ủy ban này vào ngày 08/08/2023. Nhưng phó thủ tướng Chanthol nhấn mạnh : “Cam Bốt không bắt buộc phải tham vấn trước hoặc phải có thỏa thuận cụ thể từ các nước thành viên Ủy hội sông Mekong ( MRC)”.Phó thủ tướng Cam Bốt ngược lại đã chỉ trích Hà Nội khi nêu lên dự án cải tạo kênh Chợ Gạo ở miền Nam Việt Nam và khẳng định là phía Việt Nam "thậm chí còn không thông báo về dự án này cho Ủy hội sông Mekong”. Cũng theo Khmer Times, cựu thủ tướng Hun Sen, hiện là chủ tịch Thượng Viện Cam Bốt, hôm 16/05 thậm chí còn kêu gọi chính phủ đừng chờ đợi nữa mà hãy tiến hành xây kênh đào Funan Techo càng sớm càng tốt để chấm dứt những tranh luận chung quanh dự án này.
5/20/2024 • 9 minutes, 28 seconds
Việt Nam: Báo động về mất cân bằng giới tính khi sinh
Năm 2023, tại Việt Nam, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức cao, tức là 112 bé trai trên 100 bé gái, trong khi tỷ số tự nhiên là khoảng 105/100, theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê vừa được công bố đầu năm nay. Năm 2022, tỷ số này là 113,7 bé trai trên 100 bé gái, đã được đánh giá nghiêm trọng, thế mà năm 2023 còn tiếp tục tăng thêm. Vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh thực sự trở thành thách thức đối với Việt Nam từ năm 2006 khi tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 bé trai/100bé gái.Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, thuộc Bộ Y tế, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước, nhưng tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Xét ở phạm vi vùng kinh tế-xã hội, vào năm 2006 chỉ mới có 3/6 vùngmất cân bằng giới tính khi sinh, đến năm 2021 cả 6/6 vùng đều bị mất cân bằng giới tính khi sinh ở cả thành thị và nông thôn.Đặc biệt, Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên, tức là các cặp vợ chồng lựa chọn giới tính ngay ở lần sinh đầu tiên. Tình trạng mất cân bằng giới tính này đưa Việt Nam vào trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ mất cân bằng giới tính cao nhất. Theo một báo cáo năm 2020 của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc ( UNFPA ), riêng tại châu Á, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt Nam đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ.Riêng tại Việt Nam, tâm lý ưa thích con trai, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã tồn tại từ rất lâu ở Việt Nam và là nguyên nhân chính gây ra mất cân bằng giới tính khi sinh. Nguyên nhân thứ hai lạm dụng khoa học – công nghệ. Ngoài ra, các quy định pháp luật chưa được thực thi nghiêm làm trầm trọng hơn tình trạng này.Trả lời RFI Việt ngữ ngày 08/01/2024, bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu & Ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA) ghi nhận:“ Thứ nhất là người Việt Nam mình thờ cúng tổ tiên và dòng họ thì theo họ bố. Tâm lý dòng họ vẫn là tâm lý rất nặng. Cha em thì trông chờ vào sự chăm sóc, sự nối dõi khi về già của người con trai gia đình. Vẫn có tâm lý là nếu không đẻ được con trai thì giống như là không làm tròn bổn phận đối với dòng họ, tổ tiên. Tâm lý đó còn rất nặng kể cả đối với những người ở thành phố, kể cả những người có học hành, có trình độ rất cao.Bây giờ còn có thêm một yếu tố, đó là các phương tiện để giúp người ta tìm kiếm sinh đẻ với giới tính theo ý muốn. Người ta có thể sử dụng rất nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật hiện đại để đạt được điều đấy.Đấy là một trong những yếu tố rất quan trọng dẫn đến việc tỷ lệ con trai sinh ra vẫn nhiều hơn con gái”.Một báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2014 cho biết những gia đình mà vợ chồng có học vấn càng cao và kinh tế càng khá giả thì càng thích con trai. Một số thay đổi gần đây cũng góp phần làm trầm trọng thêm hiện tượng này như tỷ lệ sinh thấp, đặc biệt các công nghệ sinh sản hiện đại và chi phí phải chăng, cho phép nhiều người tiếp cận.Bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc CSAGA, cũng ghi nhận:“ Luật pháp không cho phép, tuy nhiên người ta vẫn dùng muôn vàn thủ thuật để đạt được điều người ta muốn mà luật pháp không biết, ví dụ như các phương pháp truyền thống mà người ta truyền miệng với nhau để sinh được con trai, người ta có thể ra nước ngoài, tìm ra các kỹ thuật. Nói chung là có rất nhiều cách để lách luật, chứ luật pháp Việt Nam không chấp nhận việc sàng lọc giới tính khi sinh và không chấp nhận bác sĩ hoặc người làm siêu âm thông báo giới tính của thai nhi. Luật pháp đã cấm từ lâu rồi, nhưng người ta vẫn làm được việc đấy.”Theo báo mạng vnExpress ngày 8/10/2022, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng chọn làm thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – viết tắt là IVF) để sinh cho bằng được một đứa con trai dù biết lựa chọn giới tính thai nhi là trái pháp luật. Đây là phương pháp sàng lọc và xét nghiệm phôi hiện đại, có thể xác định được giới tính phôi trước lúc chuyển vào cơ thể người mẹ.Tờ báo này cho biết, hơn chục năm trước, những người muốn làm IVF hầu hết phải sang Thái Lan, Singapore với chi phí cả tỷ đồng. Vài năm gần đây, Việt Nam trở thành trung tâm đào tạo về thụ tinh ống nghiệm của khu vực, chi phí IVF tại hơn 40 trung tâm, bệnh viện trên toàn quốc dao động trong khoảng từ 70 đến 100 triệu đồng, chỉ bằng 20-25% các nước. Từ năm 2017 trở đi, số ca IVF thực hiện mỗi năm ở Việt Nam đã cao nhất khu vực ASEAN. Năm 2019, cả nước có gần 35.000 ca IVF được thực hiện.Các chuyên gia cho rằng tình trạng mất cân bằng giới sẽ ảnh hưởng xấu tới cấu trúc dân số trong tương lai, dẫn tới dư thừa nam giới. Tổng cục Thống kê dự báo đến năm 2034, nếu tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam không giảm, Việt Nam sẽ “dư thừa” 1,5 triệu nam giới lứa tuổi 15-49. Đến năm 2059, dự báo con số này sẽ là 2,5 triệu. Nếu kịch bản này xảy ra, rất có thể Việt Nam sẽ phải “nhập khẩu cô dâu” như Trung Quốc và Ấn Độ. Giám đốc CSAGA Nguyễn Vân Anh chia sẽ mối quan ngại đó." Các nhà khoa học đã nói nhiều rồi: Trong một xã hội mà số nam giới nhiều quá thì nhìn sang các nước hàng xóm thì chúng ta đã thấy, đến khi tỷ lệ nam giới thừa nhiều quá thì ngay cả việc tìm được một người bạn đời cũng không phải là dễ, thậm chí có nhiều nước mà mọi người phải tìm cách để có được những cô dâu từ nước ngoài.Thêm vào đó có thể còn có tình trạng xâm hại tình dục, cưỡng hiếp mà mọi người cũng đã nói khá nhiều rồi. Tôi nghĩ là sẽ còn những hệ lụy khác khi xã hội có sự mất cân bằng cao về giới tính, dồn đến một thời điểm nào đó thì sẽ bùng nổ."Trước tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng trầm trọng như vậy, theo bà Nguyễn Vân Anh, về lâu dài phải đẩy mạnh việc truyền thông theo hướng làm thay đổi cái nhìn của xã hội đối với phụ nữ:"Khi làm truyền thông, mình cũng đã tranh luận rất nhiều với những người làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Mình không thể truyền thông là hãy ngừng việc lựa chọn giới tính thai nhi. Truyền thông như thế không giải quyết được vấn đề, mà cần làm rõ hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội là phải như thế nào.Nếu chúng ta nhìn thấy nhiều phụ nữ giỏi giang, có thể quản lý được cuộc đời mình và có thể có đời sống hạnh phúc, cũng như có thể thành công không kém gì nam giới, thì người ta sẽ thấy là nam giới và nữ giới không có khoảng cách. Nhưng nếu người ta chỉ nhìn thấy phụ nữ bị bạo lực, đời sống phải lệ thuộc, bị coi thường, thì người ta sẽ nghĩ rằng sinh ra làm phụ nữ rất là khổ. Nếu không chú ý điều đó, thì truyền thông của mình vẫn là sai. Cho nên, trong chương trình truyền thông của SCAGA trong thời gian dài, chúng tôi tập trung vào hình ảnh những phụ nữ và những nữ thanh niên thành đạt. Tại các trường thì ở cấp 3 khi hướng nghiệp, người ta thường nói là con gái thì không cần học nhiều, chỉ cần lấy được chồng tốt.Nhưng khi đến các trường, chúng tôi đem đến những tấm gương của nhiều phụ nữ thành đạt: người thì là cảnh sát quốc tế, người thì là cung thủ, kiếm thủ, hoặc là nhà bảo tồn động vật hoang dã đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. Các em và các phụ huynh mới thấy: “ Ơ, phụ nữ cũng làm được những nghề này à? Thế mà từ trước đến giờ mình không biết!”. Các thầy cô giáo cũng thấy: “À, mình có thể hướng cho các em tự chọn theo khát vọng của các em, chứ không phải dựa vào giới tính của các em để tự định ra một cái khuôn là phụ nữ nên làm nghề này và nam giới nên làm nghề này.Nhưng tất cả những điều ấy sẽ khích lệ về lâu dài, chứ sự mất cân bằng giới tính thì không thể xóa bỏ một sớm một chiều được.”Thật ra thì đây là một hiện tượng phổ biến ở rất nhiều nước. Phát biểu tại một hội thảo quốc tế về mất cân bằng giới tính giới tính khi sinh, diễn ra tại Hà Nội đầu tháng 10/2022, ông Bjorn Andersson, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNFPA, đã nêu bật: "Hiện có hơn 140 triệu phụ nữ 'bị thiếu hụt' trên khắp thế giới do tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính".
5/15/2024 • 9 minutes, 23 seconds
Ấn Độ-Thái Bình Dương : Pháp - Việt khác về lợi ích nhưng cùng phải "đối phó" với Trung Quốc
Lần đầu tiên, sau 70 năm, Pháp được mời tham dự lễ kỉ niệm trận Điên Biên Phủ. Chuyến thăm Việt Nam của bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Sébastien Lecornu và quốc vụ khanh phụ trách Cựu chiến binh và Ký ức Patricia Mirallès mang nhiều ý nghĩa, trong đó có một điểm quan trọng là hai nước « khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp ». Trong bài viết trên trang web ngày 06/05/2024, bộ Quân Lực Pháp nhấn mạnh : « Chuyến thăm còn là cơ hội tăng cường mối quan hệ về mặt quốc phòng và thể hiện mong muốn chung của hai nước góp phần bảo đảm ổn định cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Nhìn vào những thách thức an ninh hiện nay trong vùng, Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược (…) ».Chuyến công du của bộ trưởng Quân Lực Pháp và dự sự kiện 70 năm Điện Biên Phủ có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ song phương ? Hai nước sẽ thúc đẩy tiềm năng hợp tác quốc phòng như thế nào trong tương lai ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn nhà nghiên cứu địa chính trị Laurent Gédéon tại Viện Đông Á (Institut d’Asie orientale), Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), giảng viên Đại học Công giáo Lyon (Université catholique de Lyon).RFI : Trước khi tham dự lễ kỉ niệm trận Điện Biên Phủ, bộ trưởng Quân Lực Sébastien Lecornu viết trên mạng X ngày 06/05 : « Hai đất nước chúng ta đã xây dựng một mối quan hệ cho phép chúng ta thanh thản nhìn lại lịch sử chung và sáng suốt xem xét những sự hợp tác trong tương lai trong lộ trình được tổng thống Cộng hòa Pháp và tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ». Phát biểu này có thể được hiểu như nào ? Laurent Gédéon : Trước tiên, tôi muốn nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh có rất nhiều hoạt động ngoại giao trong thời gian này, với chuyến công du Pháp của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ ngày 05-07/05, sau đó ông đến Serbia và Hungary. Trước đó, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đến Bắc Kinh từ ngày 24-26/04. Và nhất là khả năng tổng thống Nga Vladimir Putin công du Trung Quốc trong tháng 5.Chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn Pháp cũng mang ý nghĩa đặc biệt vì do bộ trưởng Quân Lực dẫn đầu. Hai bên chủ ý nhấn mạnh đến tính chất quân sự vì sự kiện được chọn để tổ chức chuyến công du là lễ kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng trong buổi làm việc hôm 06/05 với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang, ông Sébastien Lecornu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hợp tác song phương nhằm chia sẻ những ký ức lịch sử và giải quyết hậu quả của cuộc chiến giữa hai nước. Đọc thêm : Pháp-Việt hàn gắn vết thương chiến tranh ở Điện Biên PhủTuy nhiên, chúng ta có thể thắc mắc là xây dựng một mối quan hệ chiến lược chân thành, bền vững và chất lượng liệu có xác đáng hay không khi xuất phát điểm là sự kiện được coi thắng lợi vang dội của một bên và là thất bại nặng nề cho bên kia. Trận Điện Biên Phủ vẫn chất chứa đầy cảm xúc cả với Pháp lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại mối quan hệ Pháp-Việt, vốn lâu dài vì đã kéo dài trong gần một thế kỷ, thì thấy không thiếu những yếu tố chung. Cho nên cần quan tâm xem xét mối quan hệ này để xác định các điểm kết nối, ngoài mỗi khía cạnh xung đột. Nhưng đây có thể là nền tảng vững chắc, để dựa vào đó phát triển những mối quan hệ đặc biệt, thậm chí là rất riêng giữa hai nước. Sự xích lại gần nhau hơn, được hình thành từ đó, sẽ sâu sắc hơn và ít trồi sụt hơn như hiện nay - yếu tố khiến mối quan hệ yếu đuối và dễ bị tác động hơn trước những biến đổi ngoại giao và địa-chính trị.Trở lại tuyên bố của bộ trưởng Sébastien Lecornu, cho dù mô hình xích lại gần nhau nào đang diễn ra thì phát biểu của ông cũng thể hiện nguyện vọng của chính quyền Paris đưa Việt Nam vào tầm nhìn Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp đã hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam. Ông cho rằng hai bên nên tích cực đối thoại, sớm thống nhất thỏa thuận về Chương trình Hợp tác quốc phòng Pháp-Việt giai đoạn 2025-2028. Vậy những điểm chính của chương trình hợp tác này có thể là gì ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần phác lại một chút lịch sử mối quan hệ quốc phòng giữa Pháp và Việt Nam, được thiết lập từ năm 1991. Đến năm 2009, hai nước ký một hiệp định hợp tác về quốc phòng trên nhiều lĩnh vực, như gìn giữ hòa bình và quân y. Năm 2013, Paris và Hà Nội đã thiết lập quan hệ « Đối tác chiến lược ». Đến năm 2018 là « Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Hợp tác Quốc phòng 2018-2028 » và « Đối thoại Chiến lược và Hợp tác quốc phòng » được tổ chức trong khuổn khổ này. Mục đích của sáng kiến này là xây dựng một mối quan hệ vững chắc, có khả năng đáp trả những thách thức hiện tại, trong đó có an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tuyên bố Tầm nhìn chung năm 2018 đã tạo xung lực cho hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực, kể cả về trao đổi các đoàn, các cơ chế đối thoại, tham vấn, huấn luyện, công nghiệp quốc phòng, quân y, chia sẻ ký ức lịch sử, bảo tồn di tích chiến tranh, các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cũng như là tham vấn và hỗ trợ nhau trong các diễn đàn và cơ chế đa phương. Đọc thêm :Việt Nam : Đối tác mới cho chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Pháp ?Chúng ta thấy là vào tháng 12/2023, sau Đối thoại Chiến lược và Hợp tác Quốc phòng lần thứ ba, được tổ chức ở Paris, hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác quân đội thông qua việc gia tăng các cuộc trao đổi, hợp tác và huấn luyện cũng như nhấn mạnh đến an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tiếp nối những thỏa thuận đó, bộ trưởng Sébastien Lecornu thông báo hôm 06/05 rằng ông đã ký với tướng Phan Văn Giang một « thỏa thuận khung » về những hợp tác trong tương lai liên quan đến « ký ức, để tạo thuận lợi cho việc truy cập tài liệu lưu trữ và trao trả thi hài quân nhân », « quân y, trong đó có nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm nhiệt đới », « các chương trương trình huấn luyện để tạo mối liên hệ cá nhân giữa quân đội hai nước », « các chuyến thăm viếng cập cảng để cùng đóng góp cho tự do lưu thông hàng hải », « duy trì hòa bình » và « trang thiết bị quốc phòng ». Hai bộ trưởng cũng xác nhận tiếp tục các cuộc trao đổi Pháp-Việt để sớm đi đến thống nhất về chương trình Hợp tác Quốc phòng song phương cho giai đoạn 2025-2028.Trong những năm tới, chắc chắn là Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung ưu tiên vào Biển Đông. Điểm này đã được nói rõ trong cuộc gặp giữa hai bộ trưởng. Khi nhắc đến vấn đề hàng hải, hai bộ trưởng nhấn mạnh đến « tầm quan trọng của hòa bình, an ninh, ổn định, tự do lưu thông trên biển và trên không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, triển khai đầy đủ Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiếp tục đàm phán một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất ».Theo tôi, trong bối cảnh này, hợp tác quốc phòng gia tăng giữa Việt Nam và Pháp có thể gồm những điểm : huấn luyện, cung cấp vật tư, vũ khí, đón tiếp tàu chiến Pháp (như tàu tuần dương Vendémiaire đến cảng Tiên Sa ngày 11/04/2024) cũng như tổ chức các cuộc tập trận chung.RFI : Ông Sébastien Lecornu cho biết là Pháp sẽ tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam lần thứ 2 vào cuối năm 2024, đồng thời Pháp sẵn sàng giúp quân đội Việt Nam để được hiệu quả hơn thông qua huấn luyện và không loại trừ khả năng cung cấp trang thiết bị trong tương lai. Qua phát biểu của bộ trưởng Lecornu, liệu Pháp có muốn trở thành nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam không ? Và liệu có những hạn chế nào không ?Laurent Gédéon : Trước hết phải nói rằng doanh số Pháp bán vũ khí cho Việt Nam hiện không đáng kể mặc dù Pháp là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai trên thế giới. Việc thị trường Việt Nam chiếm vị trí thấp phù hợp với thực tế Việt Nam vẫn là đối tác thương mại tương đối thứ cấp của Pháp, đứng thứ 46 trong số khách hàng (chỉ chiếm 0,3% lượng hàng xuất khẩu của Pháp) và đứng vị trí thứ 21 về nhà cung cấp (chiếm 0,9% hàng nhập khẩu Pháp). Ngoài ra, Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ lịch sử với Nga, nhất là về mặt quân sự vì quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu vũ khí của Nga, chiếm gần 70% kho vũ khí.Đối với Pháp, việc tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế do Việt Nam tổ chức có lẽ đánh dấu cho sự chuyển hướng chính sách của Paris, ví dụ như chuyến công du của ông Sébastien Lecornu, và đồng thời thúc đẩy tăng cường bán vũ khí cho Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội cũng đang tìm cách đa dạng hóa quan hệ để không bị phụ thuộc quá nhiều vào một đối tác duy nhất, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc ở Biển Đông. Đọc thêm : Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam Tuy nhiên, nếu mong muốn chính trị này được đúc kết thành các hợp đồng vũ khí thì cũng phải tính đến một số hạn chế về ngoại giao cho phía Pháp liên quan đến khả năng Trung Quốc gây sức ép đối với Paris. Phía Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với nhiều hạn chế, như hạn chế về ngân sách liên quan đến chi phí của một số loại vũ khí ; hạn chế về khả năng vì mục tiêu của Hà Nội vẫn là để phòng thủ, chứ không phải tấn công với loại vũ khí tương ứng ; hạn chế về kỹ thuật liên quan đến việc quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu thiết bị quân sự của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay và điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính tương thích công nghệ và hệ thống với vũ khí của Pháp.Ngoài ra, mong muốn đa dạng hóa nguồn cung quân sự cũng có thể dẫn đến một kiểu phụ thuộc vào nhà cung cấp, nhất là về vũ khí có công nghệ cao và Hà Nội có thể lưỡng lự trước một lựa chọn như vậy. Cuối cùng, theo tôi, cần phải nhắc đến sự phát triển hợp tác quân sự Pháp-Việt còn phụ thuộc vào tương lai của quan hệ đối tác giữa Hà Nội và Matxcơva. Giả sử nếu Nga giành chiến thắng trong chiến tranh Ukraina, vị thế ngoại giao và độ tin cậy của Nga cũng sẽ được củng cố trong mắt các đối tác, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, nếu Nga thất bại ở Ukraina, Hà Nội có thể sẽ tìm cách giảm phần nào hợp tác và hướng sang các đối tác khác nhiều hơn, trong đó có Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp cũng nhắc đến ASEAN và Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN (ADMM) mà Pháp hiện là một nhà quan sát. Pháp có thể trông đợi được gì từ Hà Nội ? Việt Nam có thể đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp ? Laurent Gédéon : Nhìn vào sự phát triển hợp tác với Hà Nội, có lẽ Paris sẽ trông cậy vào sự ủng hộ của Việt Nam để tạo thuận lợi cho việc tham gia cơ chế hợp tác quốc phòng này của ASEAN.Về vai trò của Việt Nam trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, một điều chắc chắn là Pháp phát triển mối quan hệ với Việt Nam vì có liên quan đến lợi ích của Pháp ở vùng Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện là vấn đề địa chiến lược chính ở trong vùng đối với Paris. Cho nên có thể đối với Pháp, Việt Nam phần nào cũng có thể là một trong những kênh mà Paris có thể sử dụng để gây áp lực đối với Bắc Kinh.Tôi nói điều này vì trong một diễn đàn chung trên báo Valeurs actuelles ngày 05/05, ông Sébastien Lecornu và bà Patricia Mirallès đã nhấn mạnh rằng « trong một thế giới bất ổn và nguy hiểm nơi nhiều thế lực không còn ngần ngại chà đạp lên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Pháp muốn phối hợp nhiều hơn với Việt Nam để củng cố ổn định ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi có 1,6 triệu người Pháp hải ngoại sinh sống, và cũng bao gồm khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là khối ASEAN và các quốc gia thành viên ». Cùng vì mục đích này, bộ trưởng Quân Lực Pháp đã đến Nouméa (thủ phủ của Nouvelle Calédonie của Pháp) ngày 04/12/2023 nhân Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng Nam Thái Bình Dương lần thứ 10, gồm các nước Pháp, Úc, New Zealand, Chilê, New Guinea, quần đảo Tonga và Fidji. Do đó, chúng ta hiểu rằng mối quan hệ của Pháp với Việt Nam không thể tách rời khỏi những lợi ích của Pháp ở Nam Thái Bình Dương. Đọc thêm : Shangri-La : Pháp sẽ tăng cường hiện diện quân sự tại châu Á – Thái Bình DươngDo đó, câu hỏi đặt ra là sự hội tụ lợi ích giữa hai nước. Ngoài ý nghĩa thông báo, đâu là những lợi ích chung thực sự giữa Pháp và Việt Nam ? Việt Nam định nghĩa vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương như thế nào ? Và Pháp coi vùng này như thế nào ? Nhìn vào những lợi ích chiến lược của Pháp và Việt Nam hiện nay, có lẽ sự hội tụ lợi ích này khá là yếu và chỉ Trung Quốc là điểm chung chiến lược thực sự giữa hai nước. Hơn nữa, các khu vực địa lý liên quan, tức là những khu vực tập trung lợi ích riêng của hai nước, lại không giống nhau : Đối với Việt Nam là Biển Đông, còn đối với Pháp là vùng Nam Thái Bình Dương. Khi phân tích tình hình, người ta thấy rằng phía Pháp có thể sẽ phục vụ cho lợi ích của Việt Nam hơn là theo chiều ngược lại. Pháp hiện diện ở Biển Đông thông qua các chiến hạm trung chuyển qua đây. Tuy nhiên, giả sử xảy ra một cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ven biển, trong đó có Việt Nam, liệu Pháp có công khai lập trường ủng hộ Việt Nam không ?Câu hỏi này không phải là không xác đáng nếu như ta nhớ lại tuyên bố của ông Emmanuel Macron về Đài Loan hôm 11/04/2023. Lúc đó, tổng thống Pháp tuyên bố là châu Âu không nên ngả theo Mỹ hay Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột về Đài Loan. Dù được đính chính vài ngày sau đó nhưng tuyên bố đó cũng đã khiến các đồng minh của Pháp bối rối, nhất là Hoa Kỳ.Đơn thuần về mặt địa-chính trị, tổng thống Pháp chỉ nhấn mạnh đến một điều hiển nhiên, đó là lợi ích địa-chiến lược của Pháp không nằm trong khu vực này và bản đồ của Pháp về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương chỉ gồm Đông Thái Bình Dương, trái ngược với cách diễn giải về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ.Cách hiểu này của Pháp cũng có thể có giá trị đối với Biển Đông. Khó khăn cho Hà Nội là phải hiểu được thực chất sự ủng hộ của Pháp trong trường hợp khủng hoảng và hạn chế sẽ là gì ? Ngược lại, sự hỗ trợ của Hà Nội cho Paris có lẽ không phải là điều cần thiết trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Pháp và Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương. Do đó, mối quan hệ chiến lược giữa Pháp và Việt Nam vẫn còn cả một chặng đường dài cần vượt qua và những năm tới chắc chắn sẽ quan trọng để nhìn nhận tiến triển.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
5/13/2024 • 12 minutes, 57 seconds
Tại sao Việt Nam không nhập vũ khí lớn năm 2023 ?
Việt Nam tổ chức Triển lãm Quốc phòng Quốc tế lần thứ 2 tại Hà Nội từ ngày 10-22/12/2024. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam mở rộng tiếp xúc, tìm đối tác mới trong bối cảnh Nga - nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Hà Nội - vẫn bị trừng phạt do gây chiến ở Ukraina. Dù có ngân sách mua sắm vũ khí hàng năm khoảng 1 tỉ đô la, Việt Nam đã không ký bất kỳ hợp đồng nào năm 2023. Trong báo cáo ngày 11/03/2024, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế (SIPRI) cho biết Hà Nội chỉ nhận một tầu hộ tống loại biên do Ấn Độ tặng. Giáo sư Carl Thayer cho rằng « Trung Quốc sẽ gia tăng lợi thế về sức mạnh quân sự quy ước nếu Việt Nam tiếp tục giậm chân tại chỗ ».Tại sao Việt Nam không nhập khẩu vũ khí năm 2023 ? Năng lực quốc phòng của Việt Nam sẽ bị tác động như nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.RFI : Viện SIPRI cho biết Việt Nam gần như không mua vũ khí trong năm 2023. Cần hiểu sự kiện này như thế nào ?Nguyễn Thế Phương : Có nhiều lý giải cho sự kiện lần này. Thứ nhất, phải đặt trong bối cảnh là cuộc chiến Nga-Ukraina đang diễn ra hết sức khốc liệt. Có thể nói Nga là đối tác cung cấp vũ khí hàng đầu của Việt Nam. Việc Nga bị vướng vào cuộc chiến, bị phương Tây cấm vận và khả năng các quốc gia mua vũ khí của Nga sẽ bị cấm vận, đặt Việt Nam trong một tình thế khá là khó khi mà Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, hầu như là không thể mua sắm các loại vũ khí mới.Nhưng nếu nhìn lại trong báo cáo, ngân sách quốc phòng của Việt Nam vẫn tăng. Vậy có thể hiểu như thế nào ? Ngân sách dành cho mua sắm vũ khí nước ngoài giảm xuống, chủ yếu vẫn là do cuộc chiến Nga và Ukraina và những vấn đề phức tạp địa-chính trị. Nhưng các chi tiêu khác cho quân đội vẫn gia tăng : Chi tiêu cho lương bổng, hỗ trợ, hành chính ; Chi tiêu liên quan đến vấn đề bảo trì-bảo dưỡng vũ khí ; Chi tiêu cho nghiên cứu khoa học. Đặt nghiên cứu này trong bối cảnh Việt Nam đã hướng tới ưu tiên phát triển một tổ hợp công nghiệp quốc phòng trong tương lai nên việc Việt Nam đầu tư, chi nhiều tiền vào nghiên cứu và phát triển cũng là việc hiển nhiên. Chưa kể đến việc sắp tới quy mô quân đội sẽ diễn ra nhiều thay đổi, ví dụ lục quân tái cấu trúc, chuẩn bị đầu tư một số dự án phát triển mới, do đó ngân sách quốc phòng sẽ tiếp tục tăng lên. Đọc thêm : Chính sách quốc phòng "Bốn Không" của Việt Nam và thực tế ở Biển ĐôngThứ ba, hiện nay, tỉ lệ ngân sách quốc phòng trên tổng GDP của Việt Nam là dưới 3%. Trong tương lai, khi GDP tăng lên, rõ ràng số tuyệt đối về ngân sách quốc phòng sẽ phải tăng theo. Tỉ trọng chi tiêu quốc phòng so với GDP sẽ tăng. Và hai cái tăng này sẽ làm cho chỉ số tuyệt đối tiếp tục tăng mạnh hơn trong tương lai. Như báo cáo của SIPRI, tới năm 2030, tổng chi tiêu quốc phòng của Việt Nam sẽ là từ 10 đến 12 tỉ, chưa kể những chi tiêu mà Việt Nam không đưa vào ngân sách quốc phòng chính thức nhưng có liên quan đến quân đội, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến kinh tế của quân đội, ví dụ những tập đoàn kinh tế quân đội. Con số đó sẽ nhiều hơn 12 tỉ. Đó là lý do giải thích cho việc ngân sách quốc phòng của Việt Nam sắp tới sẽ vẫn tiếp tục tăng, nhưng chi tiêu cho mua sắm vũ khí nước ngoài sẽ giảm. Và hiện tượng đó bắt đầu từ cuộc chiến Nga và Ukraina năm 2022.RFI : Sự sụt giảm này có thể tác động như thế nào đến khả năng phòng thủ của Việt Nam, đặc biệt trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột trong vùng, theo như đánh động của một số chuyên gia ? Nguyễn Thế Phương : Việc này sẽ tác động tương đối lớn tới khả năng Việt Nam có thể tiến hành hoặc tham gia vào một cuộc xung đột cường độ cao, bởi vì quân đội là một mắt xích rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống quốc phòng, cũng như các lực lượng vũ trang và họ sẽ là lực lượng gánh vác sứ mệnh cao nhất khi có xung đột cường độ cao xảy ra.Theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, các lực lượng như hải quân, không quân, một số lực lượng tác chiến điện tử, lực lượng đặc biệt… sẽ được hiện đại hóa ngay lập tức. Mục tiêu này cho đến năm 2030 chắc chắn sẽ bị tác động tương đối lớn bởi cuộc chiến Nga-Ukraina, vì Nga là đối tác quốc phòng và an ninh quan trọng nhất của Việt Nam trong mua bán vũ khí, đặc biệt là những vũ khí lớn, ví dụ xe tăng, máy bay, tàu chiến. Đọc thêm : Tác động của chiến tranh Ukraina đến chương trình hiện đại hóa quân sự của Việt NamQuá trình đa dạng hóa nguồn cung vũ khí từ nước ngoài đã diễn ra trước cuộc chiến Nga-Ukraina, nhưng còn chậm. Tuy nhiên, sau khi xảy ra chiến tranh Nga-Ukraina, quá trình này bắt đầu được đẩy nhanh hơn, với việc Việt Nam tiếp xúc với rất nhiều đối tác quốc phòng khác ngoài Nga, mà không phải là truyền thống. Đối tác truyền thống có có Israel, Ấn Độ. Bây giờ, Việt Nam bắt đầu mở rộng ra, có Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia khác ở Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã có tiếp xúc.Sự kiện này cho thấy rằng Việt Nam đang cố gắng đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa nguồn cung nhưng không tiến triển nhanh được, cũng sẽ phải có một khoảng thời gian để Việt Nam có thể làm quen, tiếp xúc, để thay đổi một số cấu trúc bên trong quân đội để có thể thích ứng quá trình mới. Nhưng hiện nay, Việt Nam đầu tư cho các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng hàng hải, ví dụ hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư, bởi vì trong nhãn quan của quân đội Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, mối nguy hại cao nhất vẫn là những điểm nóng xung đột cường độ thấp.Cường độ thấp ở đây là gì ? Có thể hiểu một cách nôm na là chiến lược hoặc là chiến thuật « vùng xám » của Trung Quốc, có thể nhìn thấy rõ nhất thông qua những gì Trung Quốc đang làm với Philippines ở Bãi Cỏ Mây. Đó chính là xung đột cường độ thấp. Trung Quốc không sử dụng hải quân, không đe dọa tiến hành chiến tranh xâm lược vào lãnh thổ của một nước khác. Ít nhất là ở thời điểm hiện tại, họ chỉ sử dụng các lực lượng hải cảnh, dân quân biển để tăng cường sức ép lên quốc gia nhỏ hơn liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Quân đội Việt Nam hiện nay ưu tiên kiểu này nhiều hơn, bằng chứng là họ đầu tư rất nhiều cho lực lượng hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư. Đọc thêm :Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines Trước mắt, quá trình hiện đại hóa không quân và hải quân, tức là những lực lượng chuyên biệt đối phó với các xung đột cường độ cao sẽ bị chững lại. Nhưng với ưu tiên quốc phòng của Việt Nam hiện nay, sự chững lại đó là chấp nhận được khi mà khả năng xảy ra xung đột cường độ cao không có nhiều. Hiện nay, mối đe dọa chủ quyền và an ninh lớn nhất đối với Việt Nam là các xung đột cường độ thấp do Trung Quốc gây ra. Vì thế hiện nay, song song với việc vẫn tiếp tục những yếu tố như quan hệ với các quốc gia, mở rộng và đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, đầu tư vào công nghiệp quốc phòng nội địa, thì một phần nguồn lực quốc phòng sẽ đầu tư ngược lại cho các lực lượng chuyên đối phó với các xung đột cường độ thấp.RFI : Việt Nam chú trọng phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trong nước. Lĩnh vực này hiện đáp ứng được đến mức nào nhu cầu của quốc phòng Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam đã liệt kê ra một số mũi nhọn mà ngành công nghiệp quốc phòng và các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam sẽ cố gắng đáp ứng trong tương lai. Danh mục đó khá là dài, nhưng tóm tắt lại thì có thể nói hiện nay, Việt Nam có khả năng làm chủ công nghệ sản xuất một số loại vũ khí liên quan đến bộ binh, như súng đạn, lựu đạn, pháo hoặc một số yếu tố liên quan đến công nghệ cao, tác chiến điện tử, thiết bị không người lái thì Việt Nam cũng dần dần tiếp cận được. Hoặc trong lĩnh vực đóng tàu, các loại tàu của cảnh sát biển, kiểm ngư, dân quân biển, thì ngành công nghiệp đóng tàu nội địa Việt Nam, cả dân sự lẫn quân sự, đều đã có khả năng đóng những lớp tàu đó. Đọc thêm :Việt Nam gia tăng hợp tác quân sự với Israel nhằm làm chủ công nghệ quốc phòngNhưng vấn đề ở đây là những loại thiết bị công nghệ cao thì hiện giờ Việt Nam vẫn hoàn toàn phải nhập khẩu, đặc biệt là các loại công nghệ nền và công nghệ lõi để vũ khí đó có thể vận hành được. Do đó, năng lực của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, mặc dù đã phát triển hơn trước rất nhiều, rất là tốt so với trước đây, không những phục vụ cho nhu cầu của quân đội Việt Nam mà một số sản phẩm hoặc bán thành phẩm của công nghiệp quốc phòng Việt Nam đã được xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng đó chỉ là những sản phẩm có nền công nghệ ở tầm thấp đến tầm trung. Những sản phẩm đó chỉ đáp ứng một phần khả năng, cũng như nhu cầu của quân đội.Đặc biệt ngay cả trong tương lai tầm trung từ 10-15 năm, Việt Nam vẫn chưa có khả năng tạo ra được một loại vũ khí lớn, ví dụ máy bay, tầu chiến. Do đó, hiện tại vẫn cần có thời gian rất dài để có thể có đủ nguồn lực để đầu tư tập trung phát triển công nghệ, tiếp theo là tập trung công nghệ. Muốn làm được việc đó, hiện nay phải đi tìm và chi nguồn lực cho vấn đề đó. Đây cũng là một phần lý do giải thích tại sao ngân sách quốc phòng sẽ vẫn tiếp tục tăng trong tương lai.RFI : Nhật Bản sửa đổi chính sách, bật đèn xanh cho xuất khẩu chiến đấu cơ hợp tác chung với Ý và Anh. Việt Nam được nêu trong danh sách các thị trường tiềm năng. Về lâu dài, liệu Nhật Bản sẽ trở thành đối tác bền vững của Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Nhật Bản là một trong những đối tác đang nổi của quốc phòng và an ninh Việt Nam, cũng như là của ngành công nghiệp quốc phòng. Ngoài Nhật Bản, còn có Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, một số quốc gia phương Tây, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Ấn Độ.Vấn đề ở đây là từ « tiềm năng » đến « thực tế » là một khoảng cách tương đối xa và cần nỗ lực rất lớn của cả Việt Nam và Nhật Bản trong việc định hình chính sách cụ thể để biến « tiềm năng » thành thực tế. Việc này thực sự không đơn giản và cần thời gian. Ví dụ sẽ phải xác định xem lĩnh vực nào, loại khí tài cụ thể nào cả hai bên mong muốn phát triển hoặc trao đổi mua bán với nhau, số lượng như nào. Đặc biệt Việt Nam sẽ mong muốn rằng nếu có khả năng, Nhật Bản sẽ chuyển giao một số loại công nghệ quốc phòng cho Việt Nam. Và Việt Nam cũng phải xác định cụ thể Nhật Bản có thế mạnh gì. Sự sẵn sàng của Nhật cũng rất quan trọng, bởi vì toàn bộ hệ thống công nghệ quốc phòng của Nhật Bản liên quan mật thiết đến công nghệ quốc phòng của Mỹ. Mối quan hệ quốc phòng Việt-Nhật có thể phát triển tốt cũng dựa vào mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp. Đọc thêm : Nhật Bản, Việt Nam ký thỏa thuận chuyển giao thiết bị, công nghệ quốc phòngCho nên, tiềm năng là có và tương đối lớn. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây vẫn là các chính sách tư duy cụ thể để biến tiềm năng thành thực tế. Trong trường hợp của Việt Nam, những điểm này không nhanh được, cần thời gian và trong nhiều trường hợp là cần khá nhiều thời gian để biến thành hiện thực. Cho nên, hãy đặt kỳ vọng đó trong giai đoạn 10 năm. Sau năm 2030 mới kỳ vọng thấy được điều gì đó cụ thể. Còn từ đây đến 2030 chỉ là quá trình đặt nền tảng cho quan hệ quốc phòng Việt-Nhật chứ chưa có gì nổi trội. Cùng lắm là Việt Nam có thể mua một số khí tài đã qua sử dụng của Nhật Bản, cũng không phải là những khí tài lớn, không phải máy bay, xe tăng hay tầu chiến, mà là chuyển giao công nghệ, hoặc những khí tài như tên lửa nhưng đã qua sử dụng.Thứ hai, tiềm năng giữa Việt Nam và Nhật Bản về hợp tác an ninh quốc phòng cũng phải đặt trong bối cảnh Việt Nam quan tâm nhất hiện nay đến việc gì. Đó chính là xung đột cường độ thấp và sẽ tập trung nhiều hơn vào những "phần mềm" của hợp tác quốc phòng : huấn luyện, trao đổi đoàn, hỗ trợ ODA, một số tàu tuần tra… Những điểm này sẽ được tiếp tục đẩy mạnh. Còn về xung đột cường độ cao liên quan đến những vũ khí lớn thì phải cần rất nhiều thời gian.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
5/6/2024 • 11 minutes, 19 seconds
Việt Nam : Quanh tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng còn ai ?
Ông Vương Đình Huệ là “trụ” thứ hai trong “Tứ trụ” chỉ trong hơn một tháng "xin thôi" giữ mọi chức vụ. Bộ Chính trị đã đồng ý ngày 25/04/2024 và quyết định được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đưa ra chiều thứ Sáu 26/04, ngay trước kỳ nghỉ lễ 5 ngày. Giới quan sát nước ngoài nhận định Việt Nam đang trong thời kỳ “xáo trộn chính trị chưa từng có” và "cuộc khủng hoảng kế nhiệm tổng bí thư càng trở nên trầm trọng". Tính từ tháng 12/2022, đã có hai chủ tịch nước, hai phó thủ tướng, một trưởng ban Kinh tế Trung ương và chủ tịch Quốc Hội thôi chức vì chiến dịch chống tham nhũng. Bộ Chính trị khóa XIII cũng “bị mất” 5 ủy viên, hiện chỉ còn 13 người.Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ “đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm”. Trước đó, ông Phạm Thái Hà, trợ lý thân cận của ông Vương Đình Huệ, kiêm phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội, đã bị bắt giam về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi” trong vụ án tập đoàn Thuận An.Ban chấp hành Trung ương Đảng chấp nhận đơn xin từ chức vì “những vi phạm, khuyết điểm của ông Vương Đình Huệ đã gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và cá nhân ông”. Trong khi đó, chỉ mới đầu tháng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ còn dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 07 đến 12/04 và tiếp kiến chủ tịch Tập Cận Bình. Chuyến công du được Reuters đánh giá là đáng chú ý vì sự nhạy cảm trong mối quan hệ giữa Việt Nam với nước láng giềng khổng lồ.Vậy nên hiểu như thế nào về sự kiện này, cũng như việc hai trong số “Tứ trụ” phải từ chức chỉ trong hơn một tháng ? Trả lời RFI Tiếng Việt qua thư điện tử ngày 28/04, giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (DKI APCSS), tại Hawaii, Hoa Kỳ, giải thích :“Ông Huệ đi thăm Trung Quốc là nằm trong chương trình trao đổi các đoàn cấp cao giữa hai nước. Sớm muộn ông cũng phải làm việc này. Còn việc bắt lãnh đạo doanh nghiệp sân sau và trợ lý của ông vào cùng thời gian có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên, cũng có thể là sự lợi dụng cơ hội lúc ông đang bận tập trung vào chuyến thăm.Việc trong vòng hơn một tháng, hai trong tứ trụ của Việt Nam phải từ chức, cho thấy cuộc đua quyền lực để chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XIV đã bước vào giai đoạn hết sức khốc liệt”.Đây cũng là nhận định của một số nhà quan sát quốc tế được trang Nikkei Asia trích dẫn ngày 28/04. Hành động trên danh nghĩa là “từ chức” nhưng thực ra là “bị lật đổ”. Futaba Ishizuka, nhà nghiên cứu chuyên về chính trị Việt Nam tại Viện Kinh tế Phát triển Nhật Bản, đánh giá “cuộc chiến chống tham nhũng hiện nay ngày càng trở thành một công cụ chiến tranh phe phái”. Việc tố giác và các hành động khác dường như thêm sôi động trước Đại hội Đảng dự kiến diễn ra đầu năm 2026.Tổng bí thư chống tham nhũng “chỉ cắt cành, tỉa ngọn”Theo báo điện tử Thanh tra Chính phủ, tháng 05/2012, Hội nghị Trung ương 5 khoá XI đã quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do tổng bí thư làm trưởng ban để chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tham nhũng trên phạm vi cả nước. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm hoạt động (2012-2022) ngày 30/06/2022, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “chống tham nhũng là chống giặc nội xâm, tức thói hư, tật xấu, suy thoái về phẩm chất, đạo đức ; tệ ăn bớt, ăn cắp, ăn chặn của công ; chặn tình trạng biếu xén cho, tặng, hối lộ tiền tài, của cải, vật chất với động cơ không trong sáng”.Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, gần 100 cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý đã bị kỷ luật, theo số liệu được Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của đảng công bố sáng 13/03/2024. Chính tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng giữ chức trưởng tiểu ban nhân sự. Theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM), khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 21/03, “ông Trọng cho thấy vẫn muốn có ảnh hưởng đến việc chọn người kế nhiệm khi ông nắm giữ chức trưởng tiểu ban nhân sự”. Tuy nhiên, những nhân vật được cho là có thể thay thế ông đều lần lượt phải ra đi. Liệu tổng bí thư đảng còn thực sự nắm quyền điều hành chiến dịch “đốt lò” hiện nay ? Giáo sư Alexander Vuving nhận định :“Rõ ràng là chiến dịch chống tham nhũng đã vượt tầm kiểm soát của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Phương châm của ông là “đánh chuột nhưng không làm vỡ bình”, do đó ông tìm mọi cách để giữ bình không bị vỡ, nhưng ông lại không nghĩ rằng trong số chuột cũng có cả những con cưng của ông”.Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kiên quyết “công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chịu bất cứ sức ép nào” khi phát biểu tại phiên họp thứ 24 của Ban Chỉ đạo Trung ương sáng 16/08/2023. Ngoài ra, còn một điểm mới trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, theo trang Quân đội Nhân dân, là “kiên quyết làm rõ trách nhiệm chính trị của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý để xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng trong lĩnh vực được giao quản lý, phụ trách. Trên cơ sở đó, khuyến khích cán bộ từ chức, xin thôi chức vụ, kịp thời miễn nhiệm, thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút”.Liệu tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có bị rơi vào chính chiếc bẫy chống tham nhũng, vì đến giờ ông chưa tìm ra được người kế nhiệm ? Giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye tại Haiwaii, nhận định với RFI Tiếng Việt :“Có thể nói là chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng đã tạo ra một chiếc bẫy mà chính ông bị rơi vào. Ông Trọng chống tham nhũng theo kiểu cắt ngọn, tỉa cành trong khi vẫn bón phân đầy đủ cho gốc rễ. Việc đó khiến cây tham nhũng vẫn tiếp tục sum suê, mặc dù một số cành, kể cả ngọn, bị cắt tỉa. Không ngờ việc cắt ngọn tỉa cành lại cắt luôn cả những cành và ngọn được ông Trọng chăm bẵm và kỳ vọng”.Định hướng chống tham nhũng phục vụ cho người thực sự chỉ đạo ?“Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc”, theo một bài viết của báo điện tử đảng Cộng sản Việt Nam ngày 01/02/2024. Rút bài học Liên Xô tan rã, ông Trọng cho rằng “lý do chính để chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở khối Liên Xô cũ và ở Đông Âu là những người kém cỏi được chọn để lãnh đạo đất nước”. Chống tham nhũng là một trong những cách bảo vệ tính chính danh của đảng. Chiến dịch “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” được công chúng ủng hộ rộng rãi, do tham nhũng tràn ngập vào chính trị và kinh doanh. Do đó, “lò” sẽ còn rực lửa vì vẫn chưa triệt được tận gốc tham nhũng. Giáo sư Alexander Vuving nhận định :“Chiến dịch chống tham những đã trở thành một bộ phận quan trọng trong văn hóa chính trị của Việt Nam. Nhà cầm quyền tin rằng nó là một cách quan trọng để lấy lại niềm tin của dân chúng, cũng như giữ sức khỏe cho chế độ. Đồng thời, nó cũng trở thành một công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ giới cầm quyền. Do đó việc chống tham nhũng sẽ vẫn tiếp tục. Có điều, định hướng của nó lại phụ thuộc vào những người dùng nó. Định hướng của nó sẽ tiếp tục thay đổi theo sự hữu hiệu của nó đối với cuộc đấu tranh quyền lực của giới cầm quyền”.Và “người dùng” hiện nay chính là bộ Công An. Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện IRSEM tại Pháp, từng nhận định với RFI Tiếng Việt rằng “hiện giờ chiến dịch chống tham nhũng được điều hành trực tiếp từ bộ Công An, dưới trướng ông Tô Lâm”. Từ đầu năm 2024, nhắc đến Việt Nam là người ta chỉ nghĩ đến những đại án tham nhũng và hai trong số “Tứ trụ” lần lượt từ chức trong khi đất nước vẫn chưa giải quyết được những khó khăn tác động đến thu hút đầu tư nước ngoài, như thiếu điện, thủ tục chậm trễ vì cán bộ tránh ký quyết định vào thời điểm này, sợ bị kéo vào cuộc chiến quyền lực.Trang The Conversation ngày 24/04 đánh giá đại án Vạn Thịnh Phát là “vụ lừa đảo đặc biệt ở Việt Nam cho thấy những lỗ hổng cố hữu trong ngành ngân hàng”. Cuộc chiến giành chiếc ghế tổng bí thư được Reuters cho là có thể gây quan ngại về “ổn định chính trị” của Việt Nam, hiện là trung tâm sản xuất ở Đông Nam Á, phụ thuộc mạnh vào đầu tư nước ngoài và giao thương. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Futaba Ishizuka cho rằng “việc các chính phủ và nhà đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên lo lắng là điều không thể tránh khỏi”.Quốc Hội dự kiện bắt đầu họp phiên thường kỳ vào ngày 20/05. Ngoài việc bỏ phiếu để ông Vương Đình Huệ thôi giữ chức vụ, Quốc Hội có thể sẽ bầu ra chủ tịch Quốc Hội mới, cân nhắc vị trí chủ tịch nước. Chiếc ghế tổng bí thư, được quyết định trong kỳ Đại hội XIV, có lẽ sẽ còn gây ra nhiều bất ngờ. Bộ trưởng Công An Tô Lâm, 66 tuổi, một trong những ứng viên cho vị trí tổng bí thư, đã từ chối chức chủ tịch nước. “Trước đây, ông Tô Lâm luôn phải đối phó với ảnh hưởng rất mạnh của ông Nguyễn Phú Trọng”, theo nhà nghiên cứu về Việt Nam Benoît de Tréglodé, nhưng hiện giờ “bộ trưởng Công An gần như là chỉ huy chính những chiến dịch chống tham nhũng này”. Và cuộc chiến kế nhiệm, “lẽ ra phải xảy ra trong năm 2025, lại đến sớm hơn, ngay từ bây giờ”.
4/29/2024 • 9 minutes, 3 seconds
Lời mời tổng thống Nga Putin thăm Việt Nam và thế cân bằng khó khăn của Hà Nội
Theo báo chí trong nước, ngày 26/03/2024, trong một cuộc điện đàm, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã mời tổng thống Nga Vladimir Putin “sớm thăm chính thức Việt Nam” và ông Putin đã nhận lời. Cho đến nay, tổng thống Putin đã đến thăm Việt Nam 4 lần, gần đây nhất là nhân thượng đỉnh APEC ở Đà Nẵng năm 2017. Hiện giờ chưa biết khi nào ông Putin sẽ đi thăm Việt Nam. Theo thông cáo của Ban Đối ngoại Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam, hai bên “sẽ phối hợp thu xếp thời điểm thích hợp” cho chuyến đi này.Trong cuộc điện đàm nói trên, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định Việt Nam vẫn “trân trọng sự giúp đỡ to lớn của Liên bang Nga trong Liên Xô trước đây cũng như ngày nay” cho Việt Nam. Ông Nguyễn Phú Trọng còn nhấn mạnh Việt Nam xác định quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với Nga là “một trong những ưu tiên hàng đầu” trong chính sách đối ngoại của mình.Việt Nam và Nga đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1950 và đến năm 2012 đã nâng quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, mức cao nhất trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraina do tổng thống Vladimir Putin phát động vào tháng 2/2022 đã đặt Hà Nội vào thế khó xử, nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn cố giữ thái độ trung lập, theo đúng chính sách ngoại giao được mệnh danh là ngoại giao "cây tre".Trong bài viết mang tựa đề “Việt Nam và chiến tranh Nga-Ukraina: “Ngoại giao cây tre” của Hà Nội thành công nhưng thách thức vẫn còn”, được đăng vào tháng 02/2024 trên trang mạng của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, nhà nghiên cứu cao cấp Ian Storey của Viện này ghi nhận:"Giữa hai bên tham chiến, duy trình quan hệ với Nga rõ ràng là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Nhưng để phù hợp với chính sách ngoại giao "cây tre" của mình, Hà Nội cũng đã cẩn thận để không làm mất lòng Kiev. Tại hội nghị thượng đỉnh G7 ở Hiroshima vào tháng 5/2023, mà Nhật Bản mời cả Việt Nam và Ukraina, thủ tướng Phạm Minh Chính trong cuộc gặp với tổng thống Volodymyr Zelensky đã nói rằng Việt Nam coi trọng mối quan hệ với Ukraina và về xung đột Nga-Ukraina, lập trường của Hà Nội là tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp Quốc." Việt Nam mời tổng thống Nga đến thăm mặc dù vào tháng 3 năm ngoái, Tòa án Hình sự Quốc tế đã phát lệnh bắt giữ ông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 18/04/2024, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, giải thích vì sao Việt Nam mời tổng thống Putin sang thăm trong lúc này mà không ngại phản ứng của các nước phương Tây, nhất là của Mỹ:"Bản thân tôi cũng cảm thấy khá bất ngờ với lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mời tổng thống Putin sang thăm Việt Nam trong bối cảnh Nga đang bị Mỹ và các nước phương Tây khác cấm vận và cô lập trên trường quốc tế. Có lẽ và bản thân ông Putin muốn phát triển quan hệ với các nước đối tác truyền thống như Việt Nam để giảm sức ép quốc tế để thể hiện nước Nga vẫn có bạn bè, đối tác và có thể vượt qua được các áp lực, cấm vận từ phương Tây.Trong bối cảnh ấy cũng dễ hiểu khi mà Nga chọn Việt Nam để tăng cường quan hệ. Chính vì vậy mà có lẽ Việt Nam cũng đã chịu một ít sức ép từ phía Nga trong việc gởi lời mời ông Putin sang thăm Việt Nam. Có lẽ Hà Nội cũng sẽ cảm thấy bất tiện khi mời ông Putin sang thăm lần này trong bối cảnh cuộc chiến Ukraina vẫn đang diễn ra như vậy và bản thân ông Putin cũng đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã.Bên cạnh sức ép của Nga thì có thể Việt Nam cũng cân nhắc các động lực khác, vì hiện nay Việt Nam cũng có một số lợi ích trong quan hệ với Nga mà Việt Nam muốn duy trì, như là Việt Nam vẫn sử dụng nhiều loại vũ khí có nguồn gốc từ Nga, hay là Việt Nam có các khoản đầu tư lớn vào Nga trong các lĩnh vực như năng lượng, hay nông phẩm.Chuyến thăm lần này không đơn thuần là nhằm tăng cường quan hệ hai nước, mà Việt Nam muốn có chuyến thăm nhằm giải quyết một số vấn đề vướng mắc trong quan hệ song phương. Chúng ta còn cần thời gian để xem, nhưng trước mắt, Việt Nam có thể là không hoàn toàn thoải mái với chuyến thăm này. Điều này được thể hiện qua việc Việt Nam vẫn cố gắng tuân thủ một số yêu cầu từ phương Tây trong việc trừng phạt Nga. Theo tôi hiểu thì hiện tại Việt Nam vẫn chưa nối lại các đường bay thẳng tới Nga kể từ khi Nga xâm lược Ukraina tháng 02/2022. Điều đó cho thấy vị thế của Việt Nam khá là nhạy cảm trong việc cân bằng quan hệ giữa Nga với các đối tác phương Tây, đặc biệt là Mỹ và các nước châu Âu."Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Ian Storey nhận định:“Cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraina vào tháng 2/2022 là một cuộc trắc nghiệm đối với chính sách ngoại giao 'cây tre' của Việt Nam, làm gia tăng căng thẳng giữa đối tác cũ của Hà Nội là Nga và các đối tác mới ở phương Tây, cũng như giữa phương Tây và đối thủ truyền thống của Việt Nam là Trung Quốc. Để đối phó với cuộc xâm lược, Việt Nam đã áp dụng quan điểm trung lập về cơ bản để tự bảo vệ mình khỏi các tranh chấp giữa các nước lớn phát sinh từ chiến tranh, duy trì mối quan hệ ổn định với tất cả các bên tham gia chính và các bên liên quan, đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.”Như vậy là cho tới nay, Việt Nam vẫn cố giữ lập trường trung lập đối với xung đột Ukraina - Nga, một phần cũng vì Hà Nội đều có quan hệ tốt với cả hai bên. Nhưng nếu chiến tranh kéo dài nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa, liệu lập trường đó có thể đứng vững được không? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp nhận định:"Việt Nam vẫn có lợi ích rất lớn trong việc giữ lập trường trung lập trong cuộc chiến giữa Nga với Ukraina. Tuy nhiên, khi chiến tranh càng kéo dài, việc giữ vị thế trung lập ấy sẽ ngày càng khó khăn hơn do áp lực từ cả hai phía đối với Việt Nam ngày càng gia tăng.Trong thời gian đầu sau cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina thì có vẻ như Việt Nam đồng cảm với Nga hơn, nghiêng về Nga nhiều hơn. Nhưng theo thời gian thì Việt Nam dần dần quay lại vị thế trung lập. Không loại trừ khả năng là trong tương lại, khi cuộc chiến kéo dài, gây ra các thiệt hại về lợi ích, về hình ảnh, Việt Nam sẽ ngày càng giữ khoảng cách với Nga.Điều này xuất phát từ thực tế: cho dù Nga là đối tác truyền thống của Việt Nam đã hỗ trợ Nga rất nhiều trong quá khứ, nhưng hiện tại tầm quan trọng của Nga đối với Việt Nam, đặc biệt là về kinh tế, không lớn, đặc biệt là so sánh với các đối tác như Mỹ và châu Âu, những bạn hàng và thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Các nước phương Tây cũng là nguồn đầu tư mà Việt Nam rất mong muốn thu hút.Chính vì vậy mà Việt Nam sẽ không thể làm ngơ trước các áp lực ngoại giao của Mỹ và phương Tây nói chung trong quan hệ với Việt Nam. Phía Việt Nam cũng sẽ rất mong muốn Nga sẽ sớm kết thúc cuộc chiến Ukraina. Tuy nhiên điều này khó có thể xảy ra trong thời gian trước mắt. Cho nên, việc Việt Nam giữ thế trung lập của mình với Nga và phương Tây sẽ ngày càng khó khăn hơn và sẽ đòi hỏi rất nhiều kỹ năng khéo léo về mặt chiến lược của Việt Nam."Mặt khác, N ga hiện nay vẫn là nguồn cung cấp vũ khí chính yếu của Việt Nam. Việc Nga bị quốc tế trừng phạt, cấm vận có gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc hiện đại hóa quân đội, nhất là trong việc thay thế những vũ khí từ thời Liên Xô nay đã sắp hết hạn sử dụng, chẳng hạn như các chiến đấu cơ? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp giải đáp:"Các vũ khí của Nga đã được Việt Nam sử dụng hàng chục năm nay, kể từ thời chiến tranh lạnh cho đến nay, cho nên kể cả khi Việt Nam không mua mới từ Nga thì Việt Nam vẫn phụ thuộc vào Nga về việc bảo trì, bảo dưỡng các trang thiết bị này. Ví dụ như Việt Nam trông thời gian qua đã có một số khó khăn trong việc bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa các tàu ngầm mà Việt Nam đã mua từ Nga. Trong một số lĩnh vực, Việt Nam phải phụ thuộc vào một số dịch vụ từ các bên thứ ba, ví dụ như Ấn Độ.Bây giờ làm sao giải quyết được vấn đề này trong quan hệ với Nga, vừa có thể giúp Việt Nam hiện đại hóa lực lượng của mình trong thời gian tới? Đó là một bài toán rất là khó đối với Việt Nam. Nếu Việt Nam tiếp tục mua vũ khí từ Nga thì sẽ vi phạm các lệnh cấm vận của phương Tây và có thể làm sứt mẻ quan hệ của Việt Nam với phương Tây. Còn nếu Việt Nam ngưng các hoạt động hợp tác quốc phòng với Nga thì sẽ không chỉ gây khó khăn cho quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam và có thể ảnh hưởng đến các hoạt động bảo trì, bảo dưỡng các vũ khí của Nga mà Việt Nam đang sử dụng.Tuy nhiên, về dài hạn, Việt Nam sẽ phải tìm mọi cách để giảm sự phụ thuộc vào Nga. Trong bối cảnh đang bị cấm vận, năng lực của Nga cung cấp các vũ khí, các trang thiết bị mà Việt Nam mong muốn sẽ bị hạn chế. Vi phạm các lệnh trừng phạt của quốc tế cũng không phải là điều mà Việt Nam mong muốn. Chính vì Việt Nam hiện cũng đang tìm cách mở rộng quan hệ thương mại, quốc phòng với các đối tác mới, ví dụ như Israel, Hàn Quốc hay kể cả Mỹ, Nhật và các nước Đông Âu vẫn có các mặt hàng tương thích với các vũ khí của Nga mà Việt Nam đang sử dụng. Tuy nhiên, cũng có một số khó khăn về chi phí, đặc biệt là rất cao, nếu mua các vũ khí của Mỹ và châu Âu. Ngoài ra còn có vấn đề tương thích giữa các vũ khí, các hệ thống mới với các hệ thống của Nga mà Việt Nam đang sử dụng.Các triển lãm quốc phòng mà Việt Nam tổ chức gầy đây cho thấy ý định của Việt Nam đa dạng hóa các nguồn cung. Tuy nhiên Việt Nam cần có thêm thời gian để làm tốt việc này. Chính vì vậy, trong thời gian trước mắt, ít nhất là trong 5-10 năm tới, sự phụ thuộc của Việt Nam vào các vũ khí của Nga có thể sẽ không giảm quá nhanh và quá nhiều."Nhà nghiên cứu Ian Storey cũng cho rằng xung đột Nga-Ukraina đặt ra những thách thức về trung và dài hạn cho quân đội Việt Nam, vốn dựa nhiều vào vũ khí của Nga. Theo ông, xung đột này cũng ảnh hưởng đến tranh chấp kéo dài giữa Việt Nam với Trung Quốc ở Biển Đông, do Nga ngày càng phụ thuộc vào đối tác chiến lược Trung Quốc.Ông Ian Storey nhận định việc tăng cường quan hệ chiến lược Nga - Trung ảnh hưởng đến Việt Nam nhiều hơn bất kỳ quốc gia Đông Nam Á nào khác. Hà Nội lo ngại Bắc Kinh có thể sử dụng mối quan hệ với Matxcơva để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam.Trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, như vậy liệu Việt Nam có thể đặt tin tưởng vào đối tác Nga? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp nhận định:"Việc Nga ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc trong bối cảnh họ đang bị bao vây, cô lập, cấm vận của phương Tây là một rủi ro mà Việt Nam phải cân nhắc khi tăng cường hay duy trì quan hệ với Nga. Trung Quốc là đối tác lớn hơn Việt Nam rất nhiều đối với Nga, cho nên khi cần phải cân nhắc hay đánh đổi giữa quan hệ với Trung Quốc và quan hệ với Việt Nam, tôi tin chăc là Nga sẽ ưu tiên quan hệ với Trung Quốc và điều này phần nào được thể hiện qua thái độ của Nga đối với tranh chấp Biển Đông. Đã có một số lần phía Nga thể hiện lập trường ủng hộ các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông làm phương hại đến các lợi ích của Việt Nam.Tôi nghĩ là động lực này sẽ không thay đổi, thậm chí rủi ro còn trở nên cao hơn đối với Việt Nam, nhất là khi mà chiến tranh Ukraina kéo dài và làm cho sự phụ thuộc của Nga vào Trung Quốc ngày càng lớn và ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Nga ngày càng tăng. Đó là một lý do mà tôi nghĩ là Việt Nam cần phải nhanh chóng giảm sự phục thuộc vào Nga, đặc biệt là về nguồn cung vũ khí, để có thể có sự tự chủ chiến lược lớn hơn trong quan hệ với Nga và Trung Quốc. Nói chung Việt Nam cần phải thận trọng, thực tế hơn trong quan hệ với Nga, không nên để các yếu tố cảm tính át đi lý trí, vì suy cho cùng, đối với Việt Nam, lợi ích quốc gia vẫn là tối thượng trong việc định đoạt chính sách của mình đối với các quốc gia khác nói chung và với Nga và Trung Quốc nói riêng."
4/22/2024 • 12 minutes, 14 seconds
Việt Nam giúp được gì Bắc Triều Tiên để gỡ thế cô lập ?
Bắc Triều Tiên muốn “tăng cường hợp tác và thúc đẩy quan hệ song phương với Việt Nam lên một tầm cao mới”. Sau nhiều năm đóng cửa chống dịch Covid-19, Bình Nhưỡng dường như đang nối lại hoạt động ngoại giao với các nước bằng hữu trong vùng và ASEAN, trong bối cảnh “bị cô lập”, một phần là do phải đóng cửa nhiều cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khi chọn đến thăm ba nước, Trung Quốc - đối tác hàng đầu, Việt Nam - nước có cùng hệ tư tưởng và Lào - nước chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2024, chính quyền Bình Nhưỡng muốn khẳng định “vẫn còn bạn”. Trưởng đoàn Kim Song Nam, ủy viên dự khuyết bộ Chính Trị kiêm trưởng ban Đối ngoại Trung ương đảng Lao Động Triều Tiên, nhấn mạnh mục đích chuyến thăm Việt Nam từ 25-28/03 là “nhằm tăng cường phát triển hơn nữa mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai đảng, hai nước”.Vấn đề hợp tác kinh tế được đề cập ở quy mô địa phương khi phái đoàn Bắc Triều Tiên thăm thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/03. Theo trang Chính sách & Cuộc sống, bí thư thành ủy Nguyễn Văn Nên bày tỏ “mong muốn hợp tác”, “mở rộng đầu tư giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương Triều Tiên”. Theo dự kiến, vào tháng 06, một phái đoàn của thành phố Hồ Chí Minh sẽ đi thăm và làm việc tại Bắc Triều Tiên.Tuy nhiên, Hà Nội có thể hợp tác với Bình Nhưỡng trên những lĩnh vực nào trong bối cảnh Bắc Triều Tiên bị trừng phạt quốc tế, còn Việt Nam thắt chặt hợp tác với hai đối thủ của chế độ Kim Jong Un là Hàn Quốc và Hoa Kỳ ? Liệu Bắc Triều Tiên có thể trông cậy vào Việt Nam để phá vỡ bớt thế cô lập trên trường quốc tế ?RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, trường Đại học Boston (Boston College), Hoa Kỳ, để hiểu thêm về vấn đề này.*RFI : Việt Nam là một trong ba nước (Trung Quốc và Lào) nằm trong chuyến công du của phái đoàn Bắc Triều Tiên do ông Kim Song Nam dẫn đầu. Mục đích của chuyến công du này là gì ? Vũ Xuân Khang : Bắc Triều Tiên vào cuối năm 2023 đã đóng cửa ít nhất 7 cơ quan đại diện ở nước ngoài, trong đó có một số cơ quan đóng ở các đối tác truyền thống như Uganda và Angola, hai quốc gia mà Bắc Triều Tiên duy trì hiện diện ở châu Phi. Tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Bắc Triều Tiên cũng đóng cửa lãnh sự quán ở Hồng Kông.Việc đóng cửa các cơ quan đại diện ở nước ngoài cho thấy Bắc Triều Tiên đang gặp những khó khăn về kinh tế do cấm vận quốc tế và họ không còn nguồn tiền để duy trì các cơ quan đại diện được cho là không mang lại đủ lợi ích kinh tế cho đất nước. Cũng cần hiểu rằng do Bắc Triều Tiên bị cấm vận quốc tế nên từ trước đến nay, họ luôn dựa vào những cơ quan đại diện ở nước ngoài để mang ngoại tệ về nước. Cho nên việc đóng cửa những cơ quan này là một chỉ dấu cho thấy những biện pháp cấm vận của Liên Hiệp Quốc đang có hiệu quả rõ rệt và làm giảm số lượng cơ quan đại diện nước ngoài của Bắc Triều Tiên xuống còn 44. Đọc thêm : Hàn Quốc và Cuba thiết lập quan hệ ngoại giao Có thể thấy là việc đóng cửa hàng loạt cơ quan đại diện đang đẩy Bắc Triều Tiên vào tình thế bị cô lập, trong khi nước đối địch là Hàn Quốc ngày càng mở rộng mạng lưới ngoại giao. Gần đây nhất, Seoul đã thành công trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Cuba, một đồng minh ý thức hệ quan trọng của Bắc Triều Tiên. Nếu nhìn rộng hơn, khi so sánh giữa số lượng các nước mà Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên có quan hệ ngoại giao hoặc là có trụ sở đại diện nước ngoài thì Hàn Quốc có khoảng 180, trong khi Bắc Triều Tiên hiện chỉ còn 44.Việc Bắc Triều Tiên không đóng cửa cơ quan đại diện ở Việt Nam, cũng như Việt Nam nằm trong chuyến công du ba nước của phái đoàn Bắc Triều Tiên cho thấy rằng Bình Nhưỡng vẫn rất coi trọng mối quan hệ truyền thống với Hà Nội, rộng hơn là đối với các nước Cộng sản châu Á khác khi phái đoàn Bắc Triều Tiên cũng đến thăm Trung Quốc và Lào. Mục đích chính của chuyến thăm này là nhằm giảm bớt sự cô lập của chính quyền Bình Nhưỡng sau khi phải đóng cửa hàng loạt cơ quan đại diện ở nước ngoài.RFI : Vậy Bắc Triều Tiên đặt kỳ vọng gì khi thăm Việt Nam ? Vũ Xuân Khang : Quan hệ Việt Nam và Bắc Triều Tiên trên đà phát triển trong giai đoạn từ cuối năm 2018 đến đầu năm 2019 khi Bắc Triều Tiên có những chuyến thăm cấp cao đến Việt Nam và đỉnh điểm là chuyến thăm của chủ tịch Kim Jong Un đến Hà Nội vào cuối tháng 02/2019 để tham dự thượng đỉnh Mỹ - Bắc Triều Tiên với tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Đó cũng là lần đầu tiên một lãnh tụ tối cao của Bắc Triều Tiên đến thăm Việt Nam kể từ chuyến thăm Hà Nội năm 1964 của chủ tịch Kim Nhật Thành.Hai nước đã có những chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm về đổi mới kinh tế, cũng như tăng cường giao lưu văn hóa và du lịch. Bắc Triều Tiên mong muốn thúc đẩy du lịch với Việt Nam và hai nước đã có những cuộc đối thoại về mở đường bay thẳng. Chương trình Cuộc đua kỳ thú phiên bản Việt Nam năm 2019 đã được Bắc Triều Tiên cấp phép quay một chặng đua ở Bình Nhưỡng để quảng bá hình ảnh Bắc Triều Tiên rộng rãi hơn đến khán giả Việt Nam. Đây cũng là một sự kiện chưa từng có tiền lệ khi mà Bắc Triều Tiên cho phép một chương trình truyền hình thực tế nước ngoài quay phim ở Bình Nhưỡng. Mặc dù chương trình truyền hình thực tế này không phải là quay trực tiếp nhưng đó cũng là một chỉ dấu rất lớn cho thấy Bắc Triều Tiên muốn mở cửa với thế giới và ít nhất là đối với những đối tác truyền thống như Việt Nam. Đọc thêm : Việt Nam – Bắc Triều Tiên : Tham vọng hợp tác văn hóa và đào tạo Nhưng sau đó, quan hệ Việt Nam-Bắc Triều Tiên bị chững lại sau năm 2019 do đại dịch Covid-19 khi cả hai nước đóng cửa biên giới. Bắc Triều Tiên mới chỉ mở lại biên giới một cách hạn chế từ giữa năm 2023 để đón phái đoàn từ Nga và Trung Quốc đến tham dự 70 năm ký kết hiệp định đình chiến hai miền Triều Tiên. Đầu năm nay (2024), Bắc Triều Tiên đã đón những đoàn khách du lịch quốc tế đầu tiên đến từ Nga sau hơn 4 năm chống dịch. Hiện giờ Bắc Triều Tiên cũng chỉ mới cấp lại visa đối với những thương nhân của Trung Quốc để nối lại kinh tế giữa hai nước.Bắc Triều Tiên cũng đang đẩy mạnh xây dựng các khu du lịch trong nước để sớm có thể mở rộng công nghiệp du lịch để đón khách nước ngoài. Cần phải nhắc lại rằng công nghiệp du lịch là một trong những nguồn thu không bị Liên Hiệp Quốc cấm vận, nhờ đó Bắc Triều Tiên có thể thu được ngoại tệ từ nước ngoài một cách hợp pháp.Có thể thấy Bắc Triều Tiên mong muốn nối lại hợp tác kinh tế và du lịch, được hai nước đã thỏa thuận trước dịch 2019, thông qua chuyến thăm của phái đoàn Bắc Triều Tiên do ông Kim Song Nam, ủy viên dự khuyết bộ Chính Trị, dẫn đầu. Với việc Bắc Triều Tiên đã đóng cửa một lượng lớn các cơ quan đại diện ở nước ngoài thì những nước mà họ vẫn còn giữ đại diện, như Việt Nam, sẽ càng trở nên quan trọng hơn trong chính sách ngoại giao của Bắc Triều Tiên trong thời gian tới.RFI : Hà Nội có thể làm được gì cho Bình Nhưỡng trong bối cảnh chế độ Kim Jong Un đang chịu lệnh trừng phạt của quốc tế, còn Việt Nam lại thắt chặt quan hệ với Mỹ, Hàn Quốc ? Vũ Xuân Khang : Thực ra, quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên đã không còn được như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ khi Bắc Triều Tiên giúp đỡ chính quyền Hà Nội bảo vệ không phận miền Bắc trong các cuộc ném bom của Mỹ. Đặc biệt hơn, chính chủ tịch Kim Nhật Thành còn ngỏ ý với chính quyền Hà Nội lúc bấy giờ rằng Bắc Triều Tiên sẵn sàng gửi cả lính đánh bộ nếu như Hà Nội cho phép.Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc vào năm 1992, quan hệ Việt - Hàn đã phát triển nhanh chóng nhờ chia sẽ lợi ích về kinh tế. Trái lại, quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên bị chững lại do Bắc Triều Tiên gặp khủng hoảng kinh tế và họ theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Khủng hoảng kinh tế của Bắc Triều Tiên tồi tệ đến mức Bình Nhưỡng không đủ tiền để trả những khoản nợ mua gạo của Việt Nam vào năm 1996. Chính những điều này đã làm tổn hại đến quan hệ giữa hai nước. Đọc thêm : Mô hình kinh tế Việt Nam chưa hẳn có hấp lực với Bắc Triều TiênViệt Nam nhận thấy có thể phát triển quan hệ kinh tế với Bắc Triều Tiên và giúp đỡ nước này tránh được các lệnh trừng phạt quốc tế nhờ sử dụng cảng biển của Việt Nam để trao đổi hàng hóa bị Liên Hiệp Quốc cấm vận, như than đá, dầu mỏ. Tuy nhiên, những triển vọng này đang ngày càng giảm khi cả Mỹ và Hàn Quốc đều nỗ lực thuyết phục Hà Nội thi hành các lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc đối với Bắc Triều Tiên trong các cuộc gặp cấp cao với lãnh đạo Việt Nam.Đơn cử là vào chuyến thăm của tổng thống Hàn Quốc vào tháng 06/2023, ông Yoon Suk Yeol đã trực tiếp kêu gọi Việt Nam, cũng như các nước Đông Nam Á khác, coi chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên là một mối đe dọa cho an ninh của khu vực. Tổng thống Hàn Quốc cũng mong muốn tăng cường hợp tác với Việt Nam để kiềm chế mối đe dọa an ninh từ Bắc Triều Tiên.Trong hoàn cảnh hiện nay, Việt Nam cần phải “cân đo đong đếm” quan hệ, lợi ích kinh tế với Hàn Quốc và Mỹ so với Bắc Triều Tiên. Và rõ ràng hiện giờ mối quan hệ kinh tế của Việt Nam đối với Hàn Quốc vẫn mang lại nhiều lợi ích hơn là lợi ích kinh tế của Việt Nam với Bắc Triều Tiên. Do vậy, khả năng cao là Hà Nội vẫn sẽ chỉ giúp đỡ được Bình Nhưỡng trong khuôn khổ không làm tổn hại đến lợi ích kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc.RFI : Thành phố Hồ Chí Minh sẽ cử một phái đoàn đến Bình Nhưỡng vào tháng 06, có thể nhằm tăng cường hợp tác kinh tế. Việc cử một phái đoàn cấp địa phương liệucó phải để nhằm tránh ảnh hưởng đến mối quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác như Mỹ, Hàn Quốc ? Vũ Xuân Khang : Thực ra, nếu như chính phái đoàn từ thành phố Hồ Chí Minh đến thăm Bình Nhưỡng thì cũng giống như một cuộc gặp đáp lễ cho chuyến công du của phái đoàn Bắc Triều Tiên do ông Kim Song Nam dẫn đầu. Thay vì chính quyền Hà Nội gửi một phái đoàn đến Bắc Triều Tiên mà chỉ là một phái đoàn từ thành phố Hồ Chí Minh có thể cho thấy rằng Việt Nam không muốn phá hoại quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Hàn Quốc hoặc là quan hệ Việt Nam với Mỹ.Cần phải nói rõ việc gửi phái đoàn từ thành phố Hồ Chí Minh cho thấy Việt Nam ưu tiên phát triển kinh tế, nhất là về du lịch giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên và không gửi bất kỳ một tín hiệu nào là Hà Nội ủng hộ chương trình phát triển vũ khí hạt nhân hay tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, Đại học Boston (Boston College), Hoa Kỳ.
4/15/2024 • 9 minutes, 38 seconds
Đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân phải thích ứng với ngập mặn ngày càng trầm trọng
Là vựa lúa của Việt Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long đang bị ngập mặn ngày càng trầm trọng và nông dân trong vùng này nay buộc phải thích ứng với tình trạng đó. Tình trạng khô hạn và ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long lên đến mức mà tỉnh Tiền Giang vào ngày 06/04/2024 đã phải công bố "tình huống khẩn cấp" trong khu vực huyện Tân Phú Đông.Trước đó, bên lề hội thảo Bảo vệ, phục hồi và phát triển tài nguyên nước tại Hà Nội ngày 15/3, Viện Khoa học Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã công bố một nghiên cứu mới cho biết là bốn ngành lúa, thủy sản, cây ăn quả, hoa màu của đồng bằng sông Cửu Long mỗi năm bị thiệt hại hơn 70.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 3 tỷ euro, do bị xâm nhập mặn. Báo cáo cũng dự đoán là thiệt hại do xâm nhập mặn sẽ tăng dần theo thời gian, với các kịch bản cho những năm 2030, 2040, 2050. Ông Trần Anh Phương, Viện Khoa học Tài nguyên nước, cho biết sự gia tăng của các dự báo tương ứng với kịch bản nước biển dâng, hoạt động phát triển kinh tế, xã hội cũng như khai thác tài nguyên nước thượng nguồn, đặc biệt là phát triển thủy điện và chuyển nước ra ngoài lưu vực.Đồng bằng sông Cửu Long là phần hạ lưu giáp biển của sông Mekong, có địa hình thấp và khá bằng phẳng với 2 vùng trũng lớn là Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cùng với 2 dòng chính là sông Tiền và sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt, cho nên dễ bị xâm nhập mặn do thủy triều đưa nước mặn vào sâu trong sông và nội đồng, đặc biệt trong mùa cạn, khi mà lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mekong xuống thấp. Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Võ Tòng Xuân, chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp Việt Nam, nhắc lại lịch sử hình thành của đồng bằng sông Cửu Long:“Các nhà địa chất xác định tuổi carbon 14 của đồng bằng là được hình thành từ khoảng 10 ngàn năm trước. Khi đồng bằng sông Cửu Long mới hình thành, bờ biển nằm ở ranh giới Cam Bốt bây giờ. Qua những đợt nước biển lùi vài trăm năm rồi nước biển dâng trở lại vài trăm năm, cứ dâng và lùi như vậy, mỗi lần thay đổi mặt nước biển thì để lại vết tích là những dòng cát. Có hàng trăm dòng cát như vậy nằm song song với bờ biển hiện tại. Nói cách khác, đồng bằng sông Cửu Long không có lạ gì với hiện tượng nước biển dâng và lùi. Nhưng bây giờ các nhà khí tượng học dự đoán là những quy luật trước đây như vào thời “Năm Thìn bão lụt” thì bây giờ không còn như vậy nữa. Bây giờ muốn lụt lúc nào thì lụt, muốn hạn lúc nào thì hạn. Bên kia thì đang lụt, nhưng bên đây thì lại đang cháy rừng.”Thiếu nước ngọt trong mùa nắng nóngTrong hơn một tháng qua, miền Nam Việt Nam phải đối mặt với đợt nắng nóng kéo dài bất thường. Các nhà khí tượng học cảnh báo hiện tượng này có thể tiếp tục kéo dài với hậu quả làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập của nước biển vào nước ngầm hoặc nước mặt. Hiện tượng, vẫn xảy ra hàng năm vào mùa khô, càng gia tăng do tác động của thời tiết nóng bức và mực nước biển dâng cao, cả hai đều chịu áp lực do biến đổi khí hậu. Độ mặn tăng ảnh hưởng đến cây trồng và khả năng tiếp cận nước sinh hoạt của người dân.Trong số 13 tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau có mức độ thiệt hại lớn nhất, tiếp đến là Bến Tre. Hãng tin Pháp AFP ngày 20/03/2024 đã có bài phóng sự tại Bến Tre, nơi đang bị một đợt nắng nóng kéo dài và xâm nhập mặn đe dọa nền kinh tế địa phương. Nói với AFP, nông dân Nguyễn Hoài Thương than thở: "Thật lãng phí khi bỏ ruộng lúa vì chúng tôi không có nước ngọt. Thay vào đó tôi phải nuôi bò".Tại Bến Tre, các cánh đồng vốn được trồng lúa nay đã bị nứt nẻ do hạn hán, nắng nóng. Do thiếu mưa, gia đình nông dân Nguyễn Hoài Thương phải mua nước sinh hoạt của hàng xóm với giá gần 500.000 đồng (20 euro) vào tháng 2 vừa qua. Ông Nguyễn Hoài Thương giải thích: “Chúng tôi không có nguồn nước ngọt ngầm và nước mặt thì mặn”. Nông dân Phan Thành Trung, người trồng lúa cùng làng với Nguyễn Hoài Thương, cho biết: “Tôi phải giảm vụ từ ba vụ xuống chỉ còn hai vụ một năm. Nước ở vùng tôi quá mặn nên không thể sử dụng được”. Người hàng xóm Nguyễn Văn Hùng thì đã tận dụng đợt nắng nóng để kiếm thêm thu nhập từ nguồn nước ngọt dồi dào dưới lòng đất. Ông cho biết: “Khi có những đợt hạn hán, xâm nhập mặn, tôi bán nước ngọt cho hàng xóm, nhưng nói thật là tôi cũng không vui. Thời tiết bất lợi thực sự ảnh hưởng nặng nề đến chúng tôi.”Đa dạng hóa nông nghiệp để thích ứngGần đây, các tổ chức quốc tế và các chương trình của chính phủ đã khuyến khích đa dạng hóa nông nghiệp nhằm hướng tới khả năng phục hồi kinh tế và khí hậu tốt hơn. Cụ thể là nông dân nên duy trì các đồng lúa trong mùa mưa, khi sông Mekong có thể cung cấp đủ nước ngọt, sau đó chuyển những cánh đồng đó sang nuôi tôm hoặc nuôi tôm vào mùa khô. Giáo sư Võ Tòng Xuân cũng đưa ra khuyến cáo tương tự:“Những vùng nào mà mình biết đã nhiễm mặn thì đừng ngăn mặn và đem nước ngọt về “ngọt hóa” để trồng lúa làm gì, đã có nhiều lúa lắm rồi. Bây giờ mình làm theo nghị quyết của chính phủ năm 2017, nghị quyết mà tôi đã hết sức đấu tranh để nhà nước chấp nhận thả ra, không còn ép buộc trồng lúa mọi lúc, mọi nơi. Sau nghị quyết 2017, nông dân được hướng dẫn là ở vùng ven biển không trồng lúa trong mùa nắng, trong mùa nước mặn nữa, mà chỉ trồng lúa trong mùa mưa thôi. Sau khi hết mưa rồi, thu hoạch lúa xong thì mình cho nước mặn vào rồi nông dân bắt đầu nuôi tôm, cua biển, hoặc cá kèo. Khi mùa mưa tới nữa thì mình lại trồng lúa.Mình cũng khuyến cáo bà con nông dân rất kỹ: Khi vừa thu hoạch lúa xong, đất ruộng còn ướt, đưa nước mặn vào thì nước mặn chỉ nằm bên trên thôi. Tức là khi đưa nước mặn vào thì đất ruộng phải còn ướt, còn sình lầy, như vậy đất sẽ không bị nhiễm mặn, mùa tới khi mưa trở lại thì có thể trồng lúa như bình thường.Ở vùng giữa ( đồng bằng sông Cửu Long ), bây giờ bà con được khuyến cáo là chỉ trồng một vụ lúa thôi, còn lại thì trồng những loại cây trồng cạn, như cây bắp, cây sorgho, cây mía...Có vùng thì họ lên liếp hết, trồng cây ăn quả ở trên, còn ở dưới mương thì nuôi cá hay dùng giống như hồ chứa nước trong mùa mưa để tưới cho cây trồng trong mùa nắng. Còn nguyên một vùng nằm dọc theo biên giới Cam Bốt, nơi mà sông Cửu Long bắt đầu đến Việt Nam, thì mình lấy nước ở đoạn sông đó để dẫn vào hệ thống thủy lợi dọc theo vùng phía trên Đồng Tháp Mười để phân bổ nước ngọt của sông Hậu Giang cho vùng Tứ Giác Long Xuyên. Diện tích tổng cộng của vùng này là khoảng 1 triệu 500 ngàn hecta, là vùng luôn luôn có nước ngọt, nước mặn không bao giờ lên đến đó. Đây là vùng mà tôi gọi là “sống chung với biến đổi khí hậu”, tức là không bị ảnh hưởng”.Mô hình "không bền vững"?Trong một bài viết trên trang mạng The Diplomat của Nhật Bản ngày 09/02/2024, bà Quinn Goranson, một nhà nghiên cứu về khí hậu và chuyển đổi năng lượng ở Canada, đã cảnh báo về những hậu quả của mô hình nói trên, vì theo bà, người ta ít chú ý đến các tác động tiêu cực đến môi trường của quá trình chuyển đổi hàng loạt sang nuôi tôm, một hành động mà thật ra theo bà là "không bền vững". Giáo sư Võ Tòng Xuân trấn an về cảnh báo nói trên:“ Đất ruộng để nuôi tôm không bao giờ sử dụng hóa chất, cho nên loại múa ST25 là loại gạo ngon nhất Việt Nam được trồng ở những ruộng tôm này là tốt nhất, vừa đạt tiêu chuẩn quốc tế, vừa an toàn cho người dân ăn. Đó là tại vì người ta biết là xài hóa chất cho lúa thì sẽ ảnh hưởng đến tôm nuôi. Còn khi nuôi tôm thì bây giờ người ta cũng sản xuất tôm giống rất là kỹ. Khi nuôi trong ruộng nếu tôm bệnh thì người ta dùng các loại thuốc vi sinh, tức là probiotique, chứ không phải là antibiotique.”Tuy nhiên, trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Quinn Goranson lo ngại một cái vòng luẩn quẩn của tác động tiêu cực từ mô hình đó:“Nông dân theo mô hình trồng lúa/nuôi tôm đã bắt đầu nhận thấy tác động lâu dài của các ao nuôi tôm đối với chất lượng đất, vì biến đổi khí hậu hạn chế khả năng xả muối của sông Mê Kông, khiến đất kém màu mỡ. Cuối cùng, khi tình trạng xâm nhập mặn trở nên trầm trọng hơn do mực nước biển dâng cao và sụt lún mặt đất liên tục, độ mặn sẽ vượt quá mức có thể chấp nhận được ngay cả đối với những loài tôm này. Cho nên người ta đã khuyến khích việc khai thác nước ngầm để làm loãng độ mặn của ao nuôi tôm. Sự suy giảm tầng chứa nước đã góp phần gây ra tình trạng sụt lún đất ở đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều thập kỷ, đẩy nhanh tốc độ sụt lún chưa từng thấy của đồng bằng ở mức 18 cm trong 25 năm qua.”Tình trạng sụt lún đất cũng chính là một trong những nguyên nhân ban đầu dẫn đến xâm nhập mặn. Cho nên nhà nghiên cứu Quinn Goranson đề nghị cần có những nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về tác động lên hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.
4/8/2024 • 9 minutes, 36 seconds
Việt Nam - Úc : Mối quan hệ “thực chất” dựa trên “niềm tin chính trị”
Việt Nam và Úc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện đánh dấu thành công mới trong chiến lược “ngoại giao cây tre” của Hà Nội. Trong thông cáo chung ngày 07/03/2024, hai nước “chia sẻ tầm nhìn chung về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, “không bị ép buộc, nơi độc lập, chủ quyền và luật pháp quốc tế được tôn trọng”. Dù không nêu đích danh Úc và Việt Nam nhưng Trung Quốc đã cảnh báo về nguy cơ “ưu tiên đối đầu, lập liên kết độc quyền”. Nếu được ký trong năm 2023, đúng kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương, “niềm vui sẽ được trọn vẹn”, theo nhận định của tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, giảng viên cao cấp về chính trị học và quan hệ quốc tế tại Đại học Vin, Hà Nội. Tuy nhiên, lịch trình đã được dãn ra. Phải chăng để tránh chọc giận Bắc Kinh ? Tháng 09/2023, Việt Nam đón tổng thống Joe Biden và nâng cấp quan hệ với Mỹ lên ngang tầm quan trọng với Trung Quốc vì “đối với Mỹ, thời điểm đó không thể trì hoãn hơn”.Nhưng lùi sang năm 2024 không có nghĩa là làm giảm ý nghĩa chiến lược và lòng tin của hai bên, đặc biệt là Úc là một trong những nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, và duy trì “mối quan hệ thân hữu”, theo ca ngợi của thủ tướng Scott Morrison trong chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 08/2019.Trên đây là một trong số những nhận định khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt của tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, giảng viên cao cấp thỉnh giảng về chính trị học tại Đại học Công nghệ Queensland, phó giáo sư thỉnh giảng về chính trị và quan hệ quốc tế tại Đại học Sunshine Coast ở Úc.RFI : Năm 2023, thủ tướng Anthony Albanese, tiếp theo là ngoại trưởng Penny Wong thăm Việt Nam. Từ ngày 04-08/03/2024, thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính dự thượng đỉnh Úc-ASEAN, sau đó thăm chính thức Úc. Chuyến công du của ông Chính có ý nghĩa như thế nào đối với quan hệ giữa hai nước ? Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải : Tôi cho rằng cả hai nước đều thực sự muốn nâng cấp quan hệ bởi vì cả hai nước đều nhìn thấy được vai trò, vị trí chiến lược của nhau, tầm quan trọng của mỗi nước đối với vấn đề phát triển và an ninh của nhau. Ngay từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao cách đây 50 năm, phía Úc đã nhìn thấy vị trí, vai trò chiến lược của Việt Nam trong toàn bộ khu vực Đông Nam Á. Chính vì thế, ngay cả khi chiến tranh thời đó chưa kết thúc, Úc cũng sẵn sàng tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao với một nước vốn là cựu thù, với một nước vốn còn chiến tranh với cả một đồng minh của họ, đó chính là Mỹ vào thời điểm đó.Ngược lại, Việt Nam cũng nhìn nhận Úc khác với cả những nước phương Tây khác. Mặc dù Úc cũng đưa quân tham chiến, giống như một số đồng minh khác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng cách tiếp cận cũng khá độc lập, khá tiến bộ và khá thân thiện với Việt Nam. Cho nên việc nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, tức là mức quan hệ ngoại giao cao nhất của Việt Nam đối với một đối tác nước ngoài, là điều được cả hai bên rất mong đợi. Tôi chỉ tiếc rằng việc này diễn ra hơi trễ một chút, lẽ ra các bên đều mong đợi nâng cấp từ năm ngoái (2023). Đọc thêm : Việt Nam và Úc tố cáo Trung Quốc quân sự hóa Biển ĐôngViệc nâng cấp quan hệ như vậy sẽ tạo điều kiện cho hai nước thực hiện những bước đi mang tính chiến lược hơn, kể cả từ góc độ kinh tế hay từ góc độ hợp tác quốc phòng-an ninh, cũng như một số lĩnh vực mới nổi khác như chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, đổi mới-sáng tạo… Đặc biệt là trong việc chống biến đổi khí hậu, cả Úc và Việt Nam đều đặt mục tiêu là đến năm 2050 giảm lượng phát thải về 0. Cả hai nước đều đặt mục tiêu đầy tham vọng như vậy, cho nên thiết lập mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện sẽ tạo điều kiện cho cả hai nước hỗ trợ cho nhau được tốt hơn.Đặc biệt như chúng ta thấy thủ tướng Phạm Minh Chính đã tổng kết lại việc nâng cấp quan hệ từ Đối tác Chiến lược lên Đối tác Chiến lược Toàn diện ở 6 “hơn” : tin cậy hơn về mặt chính trị, hợp tác sâu sắc hơn, hợp tác mạnh mẽ hơn, hợp tác thực chất hơn và gắn kết hơn. Tất cả những cái đó cho thấy sẽ đem lại lợi ích cho cả hai bên.Cho tới nay, mặc dù Việt Nam đã thiết lập Đối tác Chiến lược Toàn diện với cả 7 nước, bao gồm cả Úc, nhưng qua nghiên cứu, theo dõi của tôi thì tôi cho rằng mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam và Úc sẽ thực chất và toàn diện đúng với nghĩa so với một số mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện khác của Việt Nam.RFI : Việt Nam và Úc đều mong đợi nâng cấp từ năm 2023, nhân kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Vậy mối quan hệ song phương được phát triển như thế nào trong suốt nửa thế kỷ qua ?TS Nguyễn Hồng Hải : Như tôi vừa nói, khi chiến tranh Việt Nam còn chưa kết thúc, Úc đã mạnh mẽ và sẵn sàng, dũng cảm - tôi hay dùng là “quyết định một cách dũng cảm” của các nhà chính trị, các nhà ngoại giao của cả hai bên - phải thừa nhận như vậy - tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 26/02/1973.Trong suốt 50 năm, từ cựu thù, theo từng bước, hai nước tiến tới mối quan hệ thực sự tin cậy, chiến lược : từ cựu thù chuyển sang bạn bè, đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và bây giờ là đối tác chiến lược toàn diện. Không dễ dàng thấy được một mối quan hệ nào lại phát triển nhanh như vậy, và tôi nghĩ rằng không chỉ có ý nghĩa song phương mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực. Mối quan hệ đó phát triển theo toàn bộ chiều rộng và chiều sâu, từ kinh tế đến giáo dục, quốc phòng, an ninh, thương mại và đầu tư. Tất cả những mục tiêu mà hai nước đặt ra trong từng giai đoạn của sự phát triển quan hệ ngoại giao đều đạt được cả.Ví dụ trước khi hai nước thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác kinh tế của hai nước cũng đã phát triển nhưng chưa phải là những đối tác hàng đầu với nhau. Tôi nhớ là năm 2017, Việt Nam là đối tác thương mại đứng thứ 15 của Úc. Còn với Úc, Việt Nam là đối tác thương mại đứng thứ 12 hoặc 13. Nhưng khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược năm 2018, cả hai nước đặt mục tiêu sớm trở thành 1 trong 10 đối tác hàng đầu của nhau. Thậm chí là một năm sau đó, Úc đã trở thành đối tác lớn thứ 10 của Việt Nam. Còn Việt Nam đương nhiên chậm hơn một chút. Đến năm 2023, lần đầu tiên hai nước đã trở thành 1 trong 10 đối tác thương mại lớn nhất của nhau : Việt Nam là đối tác lớn thứ 10 của Úc, Úc là đối tác lớn thứ 7 của Việt Nam. Đọc thêm : Những kỳ vọng về quan hệ "Đối tác chiến lược toàn diện" giữa Việt Nam và ÚcHơn nữa, hai nước đã thiết lập những cơ chế hợp tác ở tất cả các lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh, chính trị. Ví dụ hai nước đã thiết lập cơ chế hội nghị bộ trưởng Ngoại Giao thường niên từ năm 2018, hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng thường niên, hội nghị đối thoại chiến lược quốc phòng thường niên cấp thứ trưởng. Vừa qua, khi nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, lần đầu tiên hai nước cũng đã tổ chức hội nghị bộ trưởng Thương Mại thường niên lần thứ nhất để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế và đầu tư.Nhìn vào đối ngoại của Việt Nam với các nước phương Tây, khó có một mối quan hệ đối tác nào mà thiết lập các cơ chế toàn diện đến như vậy và có sự tin cậy cao đến như vậy. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến cụm từ “tin cậy thực sự” : Hai chế độ chính trị khác nhau, hai hệ thống chính trị khác nhau, lại vốn là cựu thù của nhau nhưng hai nước đã vượt qua tất cả những khó khăn của quá khứ, tất cả rào cản kể cả về mặt ý thức hệ để tiến tới mối quan hệ chặt chẽ, cao nhất như vậy. Tôi nghĩ là phải nói đến lòng dũng cảm, lòng tin cậy một cách thực sự đối với nhau. Tôi vẫn luôn nói là ở Việt Nam khó tìm được một đối tác phương Tây nào thân thiện và tốt như là Úc với Việt Nam.RFI :Trong ngày khai mạc thượng đỉnh ASEAN-Úc, ngoại trưởng Penny Wong thông báo tài trợ 64 triệu đô la Úc cho vấn đề an ninh hàng hải ở Biển Đông, cũng như sông Mêkông. Dù không nêu chi tiết nhưng bà ca ngợi nỗ lực “xác định lãnh hải” của bốn nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia. Vậy Úc có thể hỗ trợ Việt Nam như thế nào trong vấn đề an ninh hàng hải, bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông ? TS Nguyễn Hồng Hải : Khoản tài trợ này dành cho chương trình “Sáng kiến đối tác hàng hải Đông Nam Á của Úc” (Australia’s Southest Asia Maritime Partnerships Initiatives). Mục tiêu là nhằm tăng cường sự hỗ trợ của Úc trong việc nâng cao năng lực hàng hải và tăng cường việc bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực. Chúng ta hiểu rằng khoản tài trợ này không dành riêng cho một đối tác cụ thể nào, tức là các nước trong khu vực đó đều có thể được thụ hưởng và tham gia vào sáng kiến đó. Đương nhiên Việt Nam nằm trong Đông Nam Á, bây giờ có thể coi là một trong những thành viên chủ chốt trong ASEAN, cũng sẽ được hưởng lợi từ sáng kiến này.Chúng ta thấy là còn thiếu thông tin để xác định ưu tiên cụ thể của việc hỗ trợ của Úc đối với sáng kiến này. Ví dụ có thể diễn giải rằng Úc sẽ hỗ trợ việc nâng cao năng lực chấp pháp biển có được không ? Hoặc là hỗ trợ các nước trong việc thăm dò khai thác tài nguyên biển có được không ? Tuy nhiên, bộ trưởng Ngoại Giao Penny Wong thông báo sáng kiến này trong bối cảnh, theo phát biểu của bà, là Úc đang hợp tác với ASEAN để nâng cao khả năng đối kháng. Tôi dùng cụm từ “đối kháng”, ở đây rõ ràng là đối kháng hành động cưỡng ép để đảm bảo các tuyến hàng hải phục vụ lợi ích chung và luôn rộng mở, đi lại dễ dàng.Đồng thời, theo bà, sự hợp tác này sẽ góp phần vào an ninh, thịnh vượng và quản lý hoạt động hàng hải trong khu vực. Đặt trong bối cảnh như thế, rõ ràng là sáng kiến này của Úc sẽ tập trung hỗ trợ cả về vật chất và đào tạo nhằm nâng cao năng lực chấp pháp trên biển, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, chia sẻ thông tin để quản lý hoạt động hàng hải và ứng phó với những thách thức trên biển. Đọc thêm : Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với PhilippinesChúng ta biết rằng là Việt Nam và Úc lâu nay cũng có sự hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, đặc biệt là hai bên đã có những cơ chế hợp tác ổn định. Nhưng sự hợp tác hàng hải cụ thể là nâng cao năng lực chấp pháp biển thì giữa hai bên chưa có. Nếu đọc tuyên bố chung, chúng ta cũng thấy rằng trong đó nhấn mạnh đến việc tăng cường hợp tác an ninh hàng hải - đây cũng là điều rất mới - tăng cường hợp tác giữa các cơ quan quản lý hàng hải giữa hai nước, bao gồm cả vấn đề về chia sẻ thông tin tình báo và quản lý bền vững tài nguyên biển, chống đánh bắt cá trái phép.Như vậy, có thể thấy rằng Úc có thể sẽ hỗ trợ Việt Nam tăng cường an ninh hàng hải, trong khuôn khổ sáng kiến về hợp tác hàng hải Đông Nam Á nói ở trên và hợp tác cả trong khuôn khổ Đối tác Chiến lược Toàn diện mới được nâng cấp. Tôi cho rằng Việt Nam và Úc đều là hai quốc gia biển, cả hai nước đều đặt mục tiêu là phát triển, mạnh vì biển, nên chắc chắn là hai nước không có lý do gì không phát triển mạnh vì biển và trở thành cường quốc biển.Tôi mong đợi rằng sự hợp tác giữa Việt Nam và Úc trong thời gian tới, đặc biệt là trong khuôn khổ Đối tác Chiến lược Toàn diện mới được nâng cấp này, sẽ mở rộng ra các hoạt động huấn luyện và tuần tra hải quân chung. Hy vọng rằng chúng ta sẽ chứng kiến các tàu hải quân của Việt Nam có thể sẽ viếng thăm Úc và giao lưu với lực lượng hải quân hoàng gia Úc, thậm chí là thường xuyên hơn. Hiện nay chúng ta mới chỉ thấy tàu chiến Úc đến thăm các cảng biển của Việt Nam, chứ chưa có chiều ngược lại. Tôi hy vọng trong thời gian tới có sự hợp tác mạnh mẽ hơn giữa lực lượng hải quân hai nước.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải.
4/1/2024 • 11 minutes, 13 seconds
Việt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ?
Chưa đầy hai năm, Việt Nam lại tìm chủ tịch nước lần thứ ba. Ông Võ Văn Thưởng, người được ông Nguyễn Phú Trọng che chở, không thoát khỏi chiến dịch “đốt lò” dù trước đó ông đã được tổng bí thư “cứu” một lần. Trái với người tiền nhiệm Nguyễn Xuân Phúc, ông Võ Văn Thưởng ra đi với những lời chỉ trích gay gắt của Đảng : Những vi phạm, khuyết điểm của ông “đã gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và cá nhân”. Tại sao lần này ông Thưởng không qua được cửa ải ? Một trong những lý do gián tiếp có lẽ là tình hình sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng. Tổng bí thư dường như bị những người giúp ông làm trong sạch bộ máy đảng tiếm quyền. Trên đây là một trong những nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM) trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 21/03/2024.RFI : Ông Võ Văn Thưởng là chủ tịch nước thứ hai phải từ chức trong vòng hơn một năm. Đây là chuyện vô cùng hiếm trong lịch sử Việt Nam. Nên hiểu hiện tượng này như thế nào ?Benoît de Tréglodé : Trước hết phải nói rằng đây là một sự kiện có nhiều ý nghĩa. Ông Võ Văn Thưởng, người thân cận và được tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng che chở, đã được vạch cho một sự nghiệp sáng lạn từ năm ngoái (2023). Mọi người đều cho rằng ông sẽ nắm giữ những vị trí quan trọng, kể cả chức tổng bí thư Đảng thay ông Nguyễn Phú Trọng vào thời điểm thích hợp. Ông Thưởng có cả một quá trình công tác, một sự nghiệp hoàn toàn phù hợp với những gì mà ông Trọng trông đợi ở một nhà lãnh đạo cấp cao cho Nhà nước Việt Nam. Vậy mà bỗng dưng ông Thưởng “ngã ngựa”, lại vào lúc chưa đầy hai năm nữa là tới kỳ Đại hội Đảng.Vậy có thể rút ra những bài học gì từ sự kiện này ? Trước mắt, tôi thấy được ba bài học. Thứ nhất, kể cả người được ông Trọng bảo vệ cũng “ngã ngựa”, có nghĩa là ông Trọng không còn mạnh như trước đây, cho nên các đối thủ của ông tự cho phép đánh bật ông Võ Văn Thưởng. Vì vậy, bài học rút ra, đó là chủ tịch nước bị buộc thôi chức cũng đồng nghĩa với việc ông Nguyễn Phú Trọng không còn đủ khả năng ngăn cản việc này. Nên nhớ là cách đây ít lâu, đích thân ông Trọng đã can thiệp vào bộ máy Nhà nước để bảo vệ ông Võ Văn Thưởng vì một vài rắc rối liên quan đến gia đình. Nhìn từ khía cạnh này thì đây là một điểm rất đáng quan tâm.Yếu tố thứ hai, để buộc chủ tịch nước Việt Nam từ chức, người ta lôi lại một vụ tham nhũng từ cách đây 12 năm khi ông Võ Văn Thưởng làm bí thư tỉnh Quảng Ngãi. Hậu quả vụ tham nhũng bất ngờ ập xuống sau 12 năm. Cho nên, có thể thấy đây chỉ là một cái cớ chính trị để hạ gục một người hiện trở thành mối nguy hiểm cho những mục tiêu và tham vọng của một số người khác.Điểm thứ ba, tôi cho là vô cùng quan trọng, đó là những chiến dịch chống tham nhũng đang dần thoát khỏi tầm kiểm soát của ông Nguyễn Phú Trọng trong khi ông vốn là một trong những người đấu tranh mạnh mẽ chống tệ nạn này ngay từ nhiệm kỳ đầu vào năm 2011. Hiện giờ, chiến dịch chống tham nhũng được điều hành trực tiếp từ bộ Công An, dưới trướng ông Tô Lâm và bộ trưởng Công An gần như là chỉ huy chính những chiến dịch này. Trước đây, ông Tô Lâm luôn phải đối phó với ảnh hưởng rất mạnh của ông Nguyễn Phú Trọng.Đây là ba bài học từ việc chủ tịch nước bị lật đổ mà theo tôi, mang đầy tính chính trị và tình thế. Đọc thêm :Thanh trừng chống tham nhũng : Ban lãnh đạo Việt Nam sẽ nghiêng về Trung Quốc nhiều hơn?RFI : Với tư cách là một nhà nghiên cứu, quan sát nước ngoài, ông nhận định như thế nào về việc hai chủ tịch nước bị buộc từ chức chỉ trong hơn một năm ? Benoît de Tréglodé : Trước tiên phải nói là tôi không quá bất ngờ. Đúng là cách đây vài tháng, thậm chí là vài tuần, nhiều nhà quan sát về tình hình chính trị Việt Nam, cũng như nhiều người Việt mà tôi vẫn trao đổi, đều tin vào tương lai sự nghiệp của ông Võ Văn Thưởng. Vậy mà ông bất ngờ bị hạ bệ, một cách khá tàn bạo.Đối với tôi, nếu nhìn vào ba bài học đã đề cập ở trên thì thời thế đã thay đổi và cuộc chiến thừa kế trong Đảng đã bắt đầu. Có thể là một số người trong vòng quyền lực thứ nhất biết được tình hình sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng và tự cho phép khơi mào cuộc chiến hay còn gọi là cuộc đấu tranh nội bộ để giữ những vị trí cao nhất trong bộ máy Nhà nước Việt Nam. Có nghĩa là cuộc tranh giành kế thừa ông Trọng đã được phát động. Nếu tình trạng sức khỏe của tổng bí thư Đảng không suy yếu như hiện nay thì chuyện lẽ ra phải xảy ra trong năm 2025 thì lại đến sớm hơn, ngay từ bây giờ. Cuộc chiến kế thừa sẽ không chờ đến tháng 01/2026 vào kỳ Đại hội Đảng sắp tới.Một điểm khác cần lưu ý, khi tổng bí thư Đảng nắm giữ chức chủ tịch tiểu ban nhân sự, ông Nguyễn Phú Trọng cho phần còn lại của giới lãnh đạo thấy rằng ông chưa tìm được người kế nhiệm rõ ràng. Ông cho thấy là vẫn muốn có ảnh hưởng đến việc chọn người kế nhiệm. Tuy nhiên, hiện giờ, việc ông Võ Văn Thưởng bị loại cho thấy ông Trọng không còn ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm người kế nhiệm tương lai.Tại sao chiến dịch chống tham nhũng, không biết lần thứ bao nhiêu, dường như lại loại bỏ chính người được ông Trọng bảo vệ ? Tại sao lại viện đến cái cớ cũ rích là một vụ tham nhũng ở tỉnh Quảng Ngãi cách đây 12 năm để loại ông Thưởng ? Đối với tôi, rõ ràng sự kiện này cho thấy khởi đầu của một cuộc đấu đá nội bộ giành quyền kế vị giữa các phe phái đang chi phối quyền lực Nhà nước Việt Nam. Đọc thêm :Chủ tịch nước từ chức: Lo ngại bất ổn chính trị ảnh hưởng đến kinh tế Việt NamRFI : Việc thay đổi một vị trí trong "Tứ trụ" trong khoảng thời gian ngắn như vậy sẽ tác động như nào đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế ? Benoît de Tréglodé : Trong số 18 ủy viên Bộ Chính Trị, thực ra, theo tôi hiểu giờ còn 14, nếu căn cứ vào điều lệ Đảng để có thể được bầu vào vị trí tổng bí thư, thì có lẽ chỉ còn 4 ứng cử viên có thể đủ điều kiện. Có thể thấy là có sự thắt chặt và thay đổi khá rõ ràng.Liên quan hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, tôi cho là tác động sẽ ở mức vừa phải trong thời gian đầu. Tất cả các nhà quan sát, kể cả thuộc các tổ chức công hay tư đều biết rằng bộ máy chính trị Nhà nước sẽ có biến động trước kỳ Đại hội Đảng tới. Dĩ nhiên, chuyện lại xảy ra sớm hơn dự kiến vì như tôi nói, điều được cho là có thể xảy ra vào năm 2025 lại xảy ra ngay năm 2024. Nhưng giới quan sát đã đoán được chuyện đó.Tuy nhiên, những xáo trộn trong nội bộ không có nghĩa là bộ máy Nhà nước Việt Nam sụp đổ, mà ngược lại, lại được củng cố. Đây chỉ là cuộc tranh giành những vị trí trống và để biết được thực sự rằng liệu nhân vật quyền lực hiện nay - tôi nghĩ chủ yếu đến bộ trưởng Công An - có đạt được mục tiêu của ông trong khuôn khổ tái cơ cấu các vị trí quyền lực đứng đầu Đảng hay không, nếu thực sự là sức khỏe của tổng bí thư tiếp tục suy yếu.Theo tôi, hình ảnh của Việt Nam sẽ bị tác động vừa phải bởi vì điều quan trọng là tăng trưởng của Việt Nam, đúng là thấp hơn một chút so với mong đợi nhưng vẫn ở mức đáng ngạc nhiên. Nền kinh tế Việt Nam được lợi rất nhiều từ các chính sách giảm thiểu rủi ro với Trung Quốc. Tôi tin chắc là các chuyên gia về rủi ro chính trị của những đại tập đoàn, những nhà đầu tư nước ngoài lớn không thấy mầm mống bất ổn trong nước cho nên tác động kinh tế từ những biến cố chính trị sẽ ở mức vừa phải.RFI : Việt Nam luôn ca ngợi và lấy “sự ổn định chính trị” làm lý do thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chuyện hai chủ tịch nước lần lượt phải từ chức có đi ngược lại với khẳng định này không ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên, quyết định tước chức vụ chủ tịch nước của ông Thưởng không phải được đưa ra trong hỗn loạn hay bất cẩn. Chúng ta biết là trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, ông Lê Hoài Trung, đã thăm Trung Quốc trong hai ngày 18-19/03. Tại tỉnh Cát Lâm, ông hội đàm với ông Lưu Kiến Siêu, trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đây là người đối thoại của đảng Cộng Sản Việt Nam trong trường hợp cần trao đổi với nước láng giềng. Có thể hình dung là vấn đề cách chức chủ tịch nước Việt Nam đã được bàn thảo ở Cát Lâm ngay hôm 18/03.Giữa Trung Quốc và các nước láng giềng có một truyền thống chính trị, đó là đề cập, trao đổi các vấn đề chính trị quan trọng. Đây hoàn toàn không phải là chuyện giới hạn chủ quyền. Cuộc gặp hôm thứ Hai (18/03) ở Cát Lâm có ý nghĩa quan trọng, cho thấy là các nhà lãnh đạo Việt Nam biết là họ đi về đâu. Quyết định không được đưa ra trong hoảng loạn mà được tham vấn kỹ càng. Quyết định đó hướng tới một mục tiêu đã xác định, đó là cân nhắc đến việc tổ chức lại các vị trí lãnh đạo, có thể sẽ được thực hiện trước dịp Đại hội Đảng lần tới vào năm 2026.Sự ổn định này là mục tiêu trước tiên của tầng lớp chính trị Việt Nam. Họ biết tăng trưởng kinh tế là mục tiêu đầu tiên của đảng Cộng Sản. Họ biết đất nước giầu mạnh là một dữ liệu căn bản để tạo ra sự ổn định về kinh tế, xã hội của đất nước. Mục tiêu này sẽ không bị ảnh hưởng vì chủ tịch nước đột ngột từ chức. Đọc thêm :Cải tổ chính trị để không bỏ lỡ cơ hội thành nước giàu, Việt Nam có dám ?RFI : Liệu sắp tới chuyện gì có thể xảy ra ? Benoît de Tréglodé : Chuyện này phức tạp, đó là điều mà giới chuyên gia về vấn đề chính trị ở Việt Nam thường mượn từ “Criminologie”, tức một kiểu “tin đồn, tin nói hớ” để hiểu được chuyện sẽ xảy ra như nào. Tôi là một nhà nghiên cứu về Việt Nam đương đại, tôi không nằm trong nội bộ guồng máy quyền lực Việt Nam nên dĩ nhiên đối với tôi, tất cả những đồn đại này chỉ là các giả thuyết.Một trong những giả thuyết, đó là sẽ chọn ra được một ứng viên thay thế ông Võ Văn Thưởng từ nay đến tháng Năm. Nhưng nhiều nhà quan sát nghi ngờ là liệu quyền chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân có giữ luôn thêm một thời gian chức vụ này hay không.Ngoài ra cũng có giả thuyết là gộp hai chức chủ tịch nước và tổng bí thư, như ông Nguyễn Phú Trọng đã giữ từ 2018 đến 2021, chuyện này cũng có thể xảy ra. Đúng là một số người có thể nghĩ rằng ông Trọng sẽ kiêm nhiệm hai chức vụ nhưng tôi cho rằng một trong những lý do lật ông Võ Văn Thưởng có thể là do sức khỏe của ông Trọng xấu đi, dù chúng ta không có bất kỳ thông tin y tế nào để nắm rõ. Trong trường hợp này, ông Trọng có lẽ không đủ sức khỏe để giữ cả hai vị trí về lâu dài.Trong số những ứng viên được nêu lên, người ta cũng nhắc đến nhân vật quyền lực hiện nay ở Việt Nam là bộ trưởng Công An có thể cũng muốn kiêm nhiệm cả hai chức tổng bí thư và chủ tịch nước. Đừng quên là ông Tô Lâm đã từ chối nếu chỉ giữ một mình chức chủ tịch nước. Nhìn vào ảnh hưởng của ông trong bộ máy Nhà nước, điều quan trọng đầu tiên đối với ông Tô Lâm, có lẽ là phải tìm ra được người kế nhiệm. Đã có một vài tên tuổi và có một người thân cận mà ông muốn giao trọng trách đứng đầu bộ Công An. Vị trí này có tầm quan trọng đối với ông Tô Lâm bởi vì phải để những chiến dịch chống tham nhũng trong tương lai không “động” đến ông ấy. Cho nên ông Tô Lâm thực sự cần đến một trợ thủ đắc lực, sau đó để ông có thể rảnh rang giữ chức vụ mà ông có nhiều khả năng sẽ được giao. Nhưng đó chỉ là những giả thuyết !Điều chắc chắn là ông Tô Lâm hiện là nhân vật trung tâm của công tác bổ nhiệm các lãnh đạo lớn sắp tới của bộ máy Nhà nước Việt Nam nên ông ấy sẽ cân nhắc và tính toán. Và có thể nói chắc chắn chính ông đã khéo léo can thiệp đến chuyện xảy ra hôm nay (21/03) với sự từ chức bất ngờ của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
3/25/2024 • 10 minutes, 45 seconds
Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?
Trong lúc tình hình tại Biển Đông vẫn chưa lắng dịu, thì một vùng biển khác, Vịnh Bắc Bộ, phải chăng đang có nguy cơ trở thành một điểm nóng thứ hai giữa Việt Nam và Trung Quốc? Ngày 01/03/2024, Trung Quốc đã chính thức công bố đường cơ sở mới nêu rõ yêu sách lãnh thổ của họ ở phía bắc Vịnh Bắc Bộ, khu vực chung với Việt Nam. Thông báo trên trang mạng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nêu lên 7 điểm cơ bản mà khi được kết nối sẽ tạo thành đường cơ sở cho các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Vịnh Bắc Bộ. Thông báo đó đã làm dấy lên nhiều lo ngại về ý đồ của Bắc Kinh đối với vùng biển mà hai nước đã phân định ranh giới sau rất nhiều đàm phán. Nhiều ngày sau khi đường cơ sở mới được phía Trung Quốc công bố, Việt Nam mới lên tiếng vào ngày 14/03, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng. Hà Nội đề nghị Trung Quốc “tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ ký năm 2000, cũng như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982".Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và là ranh giới phía ngoài của nội thủy, do nước ven biển quy định trên cơ sở Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).Theo Công ước này, các quốc gia ven biển được hưởng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa kéo dài tới 350 hải lý. Tuy nhiên, Vịnh Bắc Bộ, một vịnh nửa kín, bao quanh là Trung Hoa lục địa, Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc, có chiều rộng tối đa không quá 180 hải lý. Cho nên có sự chồng chéo hoàn toàn về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cả hai quốc gia trong vùng Vịnh, nếu chiếu theo Công ước UNCLOSVào năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận vạch ra ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Vịnh Bắc Bộ. Cả hai bên đều coi thỏa thuận này là "công bằng", đánh dấu ranh giới trên biển đầu tiên của Trung Quốc. Nhưng dù đã đạt thỏa thuận này, tranh chấp vẫn tiếp diễn do vẫn văn bản chưa phân định rõ ranh giới hướng ra biển. Trả lời RFI Việt ngữ, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Sài Gòn nhận định đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố là "chưa thuyết phục": " Về Vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam và Trung Quốc đã trải qua rất nhiều cuộc đàm phán và cuối cùng đã ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, gọi đầy đủ hơn là "Hiệp định Phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại Vịnh Bắc Bộ". Hiệp định được ký kết năm 2000 và có hiệu lực từ năm 2004, nay đã tròn 20 năm. Trước đó thì đương nhiên là Trung Quốc chưa bao giờ công bố đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, vì đây là vùng vốn có tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên có thể nói đây là lần đầu tiên Trung Quốc công bố một đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ.Trung Quốc sử dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng" đối với cả đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ. Điều này có lẽ là chưa thuyết phục được nhiều người. Thứ nhất, Công ước về Luật Biển có quy định rằng ở những nơi mà vùng biển khúc khuỷu, lồi lỏm thì có thể áp dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng". Trong trường hợp này thì khu vực của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bắc Bộ không phải là một khu vực khúc khuỷu lồi lỏm. Cho nên việc Trung Quốc áp dụng "đường cơ sở thẳng" là chưa hẳn thuyết phục. Điểm thứ hai là một số điểm cơ sở của Trung Quốc trong đường cơ sở thẳng này quá xa bờ và điều này làm dấy lên lo ngại là Trung Quốc không tuân thủ đúng Công ước về Luật Biển khi công bố đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ."Bắc Kinh đã từng nói là những tranh chấp đó sẽ được giải quyết thông qua một quy trình phân định mới, nhưng chưa ai hiểu lý do vì sao Trung Quốc lại công bố đường cơ sở mới vào thời điểm này. Để trấn an Hà Nội, bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định đường cơ sở mới được vạch ra “sẽ không tác động tiêu cực đến lợi ích của Việt Nam hay của bất kỳ quốc gia nào khác”, mà trái lại, “sẽ thúc đẩy hợp tác hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc và các nước liên quan và đóng góp vào sự phát triển chung của hàng hải toàn cầu”.Nhưng trong tuyên bố ngày 14/03, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng đã chỉ trích việc chính phủ Trung Quốc đưa ra 7 "điểm cơ sở" khi nối với nhau tạo thành một đường cơ sở mới nhằm tuyên bố "lãnh hải" ở Vịnh Bắc Bộ. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao, "các điểm này không tồn tại trong 49 điểm cơ sở mà Trung Quốc công bố ngày 15/5/1996 để tính chiều rộng lãnh hải từ Hải Nam tới Thanh Đảo".Bà Hằng cho biết Việt Nam "đã và sẽ tiếp tục trao đổi quan điểm với Trung Quốc về vấn đề này trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau".Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định về những phản ứng nói trên của Việt Nam: "Đây là tuyên bố thường thấy của Việt Nam. Có lẻ vì thấy dư luận đang thắc mắc và có những ý kiến lo ngại về đường cơ sở mới của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ, nên Việt Nam buộc phải lên tiếng. Phát biểu này không có gì mới hơn so với những gì mà Việt Nam và Trung Quốc đã cam kết thực hiện. Việt Nam vẫn luôn kêu gọi Trung Quốc phải tuân thủ Công ước về Luật Biển 1982.Nhưng như đã nói ở trên, đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố có lẽ có một số điểm chưa phù hợp với tinh thần Công ước về Luật Biển. So với đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố năm 1996, thì đường cơ sở mới bao trọn eo biển Quỳnh Châu, hay còn gọi là eo biển Hải Nam nằm trong nội thủy của Trung Quốc. Cái này cũng không phải là mới, vì trước đây, từ năm 1958, đến năm 1992 và đến khi công bố đường cơ sở năm 1996, Trung Quốc cũng đã từng tuyên bố eo biển Quỳnh Châu nằm trong nội thủy Trung Quốc.Năm 1996, Trung Quốc đã từng tuyên bố đường cơ sở có hai hệ thống, một hệ thống nằm trong thềm lục địa của Trung Quốc và kéo dài đến đảo Hải Nam, hệ thống thứ hai là đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa. Năm đó thì Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối với hệ thống đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, vì nó không hoàn toàn phù hợp với Công ước về Luật Biển năm 1982. Tuyên bố của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao cũng đã nhắc lại phản đối này."Shashank S. Patel, một nhà phân tích địa chính trị theo dõi sát các hoạt động ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhận định với EurAsian Times: “Việc công bố một đường cơ sở mới có vẻ quá đáng trên bản đồ sẽ tác động sâu hơn đến vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam, nơi cung cấp các vùng đánh cá chính cho Trung Quốc.”Ông nói: “Việc đơn phương phân định đường cơ sở mới của Trung Quốc là một nỗ lực nhằm hạn chế các yêu sách của Hà Nội đối với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các vùng nước sâu. Khu vực nằm trong đường cơ sở mới của Trung Quốc chiếm hơn 60% diện tích, vi phạm trắng trợn Công ước UNCLOS. Hy vọng Việt Nam không để vấn đề này leo thang lên mức cao nhất, nhưng nếu không làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền đánh bắt cá, chuỗi cung ứng và tuyến đường biển của Việt Nam trong thời gian tới”.Nhưng đối với nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố không làm thay đổi những gì đã được phân định giữa hai nước: "Với câu hỏi nó có tác động gì hay không thì tôi trả lời là không, bởi vì hai bên đã ký kết Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ từ năm 2000, có hiệu lực từ 2004, tức là 20 năm rồi. Dù Trung Quốc có vẽ đường cơ sở nào đi chăng nữa thì nó cũng không làm thay đổi sự phân định giữa hai bên theo hiệp định năm 2000. Tôi đã đọc một số ý kiến cho là Trung Quốc có mưu đồ lấn chiếm, nhưng tôi nghĩ Trung Quốc không thể lấn chiếm được khi Vịnh Bắc Bộ đã được phân định rõ ràng rồiHiệp định đã phân định xong rồi. Trung Quốc có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong khu vực của họ. Và ngược lại, Việt Nam cũng có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong phần của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, ngoài đường cơ sở thẳng mà Việt Nam tuyên bố tháng 11/1982, cũng cần phải tuyên bố thêm, như nhắc nhở của một số người trước đây, vì đường cơ sở thẳng của Việt Nam chưa được khép kín, khi còn bỏ trống một điểm cơ sở ở khu vực trong Vịnh Thái Lan vào khu vực Vịnh Bắc Bộ. Hai nơi này chưa được phân định. Khu vực Vịnh Bắc Bộ đã phân định từ rất lâu mà Việt Nam vẫn chưa công bố một đường cơ sở trong vùng biển này. Nếu hỏi hai bên có thể đàm phán lại được hay không, thì câu trả lời là “không thể”, bởi vì hai bên đã đàm phán xong rồi và đàm phán đã rất là khó khăn, và muốn thay đổi gì thì phải có sự đồng ý của hai bên. Một điều khoản trong Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ nói rõ như vậy. Tôi nghĩ rằng khả năng thay đổi rất khó vì Việt Nam không muốn thay đổi, mà Trung Quốc chắc cũng không muốn thay đổi. Điều này cho thấy là Việt Nam cũng phải sớm tuyên bố một đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ trong khu vực của Việt Nam để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở vùng biển này.".Nhưng nhìn vấn đề xa hơn, trên trang mạng EurAsian Times, nhà phân tích Patel nhấn mạnh: "Đường cơ sở mới có thể cản trở quyền tự do hàng hải, nghiên cứu khoa học, lắp đặt cáp và đường ống cũng như các nỗ lực cải tạo đảo". Patel lưu ý: “Nếu Việt Nam, theo đường lối của Philippines, đưa vấn đề ra Tòa Trọng tài Thường trực, Trung Quốc sẽ lại bác bỏ phán quyết, cho rằng phán quyết đó bất hợp pháp và vô hiệu.”
3/18/2024 • 9 minutes, 39 seconds
Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines
Việt Nam và Úc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện ngày 07/03/2024 đưa Úc trở thành một trong 7 đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Quốc phòng và an ninh nằm trong số những lĩnh vực được tăng cường hợp tác trong khuôn khổ thỏa thuận mới. Đối với Úc, Việt Nam trở thành cửa ngõ để dấn sâu vào khu vực Đông Nam Á lục địa trong bối cảnh Canberra xoay trục sang ASEAN. Còn Việt Nam có thể đặt « niềm tin », trông cậy vào việc « Úc ủng hộ thượng tôn pháp luật quốc tế ở khu vực và giải quyết tranh chấp tại Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 », theo phát biểu của thủ tướng Phạm Minh Chính.Tuy nhiên, hợp tác an ninh quốc phòng song phương sẽ « không phô trương » như hợp tác giữa Úc và Philippines, đặc biệt tại Biển Đông. Đây là một trong những nhận định trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.RFI : Việt Nam và Úc tổ chức cuộc họp cấp thứ trưởng về hợp tác an ninh lần thứ 3 vào tháng 02/2023. Mối quan hệ song phương về lĩnh vực này được hình thành và phát triển như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Đặt trong bối cảnh 50 quan hệ song phương, mối quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc chỉ là một mảng rất mới, và nổi bật chắc từ tầm 2019-2020, khi đó Việt Nam bắt đầu chú trọng việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là với các nước trung cường.Cho tới trước khi hai nước nâng cấp lên quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, điểm nổi bật nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng song phương là Úc hỗ trợ Việt Nam trong các vấn đề liên quan tới gìn giữ hòa bình, thông qua hỗ trợ tài chính, huấn luyện, đặc biệt là dạy tiếng Anh cho quân nhân Việt Nam. Ngoài ra, Úc cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc di chuyển quân nhân Việt Nam tới những khu vực mà Việt Nam làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình.Hợp tác quốc phòng giữa hai bên còn có một số điểm nhưng không đến mức nổi bật. Ví dụ, Úc cũng bán lại cho Việt Nam một số vật tư kỹ thuật để Việt Nam có thể kéo dài tuổi thọ của một số loại vũ khí thuộc hệ Mỹ và châu Âu trong biên chế của quân đội Việt Nam, bởi vì từ sau chiến tranh năm 1975, Việt Nam kế thừa rất nhiều vũ khí của Mỹ. Trong hơn 30 năm sử dụng, những vũ khí đó cũ đi và cần phải thay thế, bảo trì. Úc cũng có kinh nghiệm sử dụng vũ khí Mỹ, nên họ hỗ trợ một phần trong việc Việt Nam duy trì và bảo dưỡng một số loại vũ khí, khí tài.Ngoài ra, hai nước có một số hợp tác nhỏ trong an ninh hàng hải, những trao đổi, thăm viếng lẫn nhau… nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó. So với những quốc gia khác, như Ấn Độ, mảng hợp tác an ninh quốc giữa Việt Nam và Úc còn nhiều tiềm năng hợp tác trong tương lai, đặc biệt là sau khi hai nước nâng quan hệ lên hàng Đối tác Chiến lược Toàn diện.RFI : Sau khi nâng cấp quan hệ thì trong tương lai, hai nước có thể khai thác quan hệ hợp tác này như thế nào về mặt an ninh quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : An ninh quốc phòng là một trong những mặt hợp tác tiềm năng giữa Việt Nam và Úc trong tương lai và được đặt trên một nền tảng, đó là « niềm tin » về mặt chính trị giữa hai nước đã được thiết lập. Nhìn vào tuyên bố chung thì tăng cường « niềm tin chính trị » rất là quan trọng, bởi vì trong hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là giữa Việt Nam và các quốc gia khác, « niềm tin chính trị » đóng vai trò nút thắt rất lớn.Nếu có « niềm tin chính trị » và hai bên sẵn sàng cởi mở với nhau thì sẽ mở khóa những mảng an ninh quốc phòng có chiều sâu và thực chất hơn. Ví dụ, trong tương lai, cả hai bên có thể hợp tác trong công nghiệp quốc phòng. Đây là một trong những lĩnh vực mà quân đội Việt Nam đang chú trọng rất nhiều và đầu tư rất nhiều. Nếu có niềm tin thì hai bên mới có khả năng chia sẻ với nhau về công nghệ, đầu tư và những chia sẻ khác có liên quan tới vũ khí hoặc thông tin tình báo.Thứ hai là mở rộng hơn nữa hợp tác trong an ninh hàng hải, có thể liên quan tới huấn luyện, chia sẻ thông tin tình báo, thăm viếng lẫn nhau. Tần suất và số lượng về mảng hợp tác này giữa Việt Nam và Úc sẽ tăng lên.Thứ ba, Việt Nam và Úc sẽ tăng cường trao đổi quân nhân với nhau. Việt Nam sẽ cử sang học ở Úc, đặc biệt là học trong các Học viện Quốc phòng cũng như trong các trường đại học lớn có những chương trình về an ninh quốc gia có tiếng. Trước đây đã có hoạt động này nhưng sau khi tăng cường mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện, Việt-Úc sẽ đẩy mạnh mảng này hơn nữa, không chỉ liên quan đến quân nhân mà cả dân sự nữa.Từ khoảng 2-3 năm nay, Việt Nam đã cử cán bộ cấp trung qua Úc học rất nhiều, thay vì qua Singapore hoặc Trung Quốc như ngày xưa. Đây cũng là một điểm chứng tỏ rằng nếu như có « niềm tin chính trị », thì thông qua niềm tin đó, biên giới những mặt hợp tác sẽ được mở rộng ra và đào sâu hơn rất nhiều so với trước đây khi mà « niềm tin chiến lược » chưa đủ mức độ.RFI : Lần đầu tiên Úc tổ chức tuần tra chung trên biển và trên không với Philippines ở Biển Đông vào tháng 11/2023. Liệu Úc có thể tiến hành tương tự với Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Hiện tại, khả năng Úc tiến hành hoạt động tuần tra chung với Việt Nam, với quy mô và tính chất tương tự với Philippines, là không có. Bởi vì chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn khá dè dặt trong việc tham gia các hoạt động mang tính tuần tra hoặc là tập trận chung với một lực lượng quân sự của một nước khác, ngay cả song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN còn chưa có. Việc Việt Nam tiến hành các hoạt động tương tự thì sẽ rất khó, ít nhất là về mặt ngắn hạn.Hợp tác về an ninh hàng hải và an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc nói riêng và với các quốc gia phương Tây nói chung, ngay cả Hàn Quốc và Nhật Bản, sẽ không mang tính phô trương theo kiểu Philippines, hiện tại mà chỉ mang tính « mềm » đằng sau, như huấn luyện, trao đổi thông tin. Ví dụ Úc sẽ hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc Việt Nam sẽ tham gia cùng với Úc bên trong một cơ chế mang tính đa phương. Đó là cách thức Việt Nam sẽ tiến hành những hoạt động mang tính an ninh quốc phòng với các quốc gia khác, đặc biệt là với các nước trung cường, chứ không có quy mô và mức độ như những gì mà Úc và Philippines đang làm.RFI : Úc tuyên bố là tương lai của Úc là nằm trong khu vực. Ổn định hàng hải trong khu vực cũng sẽ liên quan đến nước này. Vậy Canberra có thể đóng vai trò như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Việc tăng cường quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Úc đến từ nhu cầu nội sinh của cả hai bên. Đặc biệt là với Úc, Đông Nam Á là một khu vực trọng tâm về mặt phát triển kinh tế, cũng như là an ninh quốc phòng, bởi vì hướng đe dọa mà hiện giờ Úc lo ngại nhất vẫn là từ phía Trung Quốc.Ngoài khu vực Đông Nam Á, khu vực truyền thống của Úc từ trước đến nay là khu vực các đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nhưng hiện tại, Úc bắt đầu dịch chuyển trọng tâm chiến lược của họ từ các đảo Thái Bình Dương sang khu vực Đông Nam Á. Đó là lý do tại sao mà Úc quan tâm như vậy tới khu vực. Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất của Úc ở Đông Nam Á, cả về hợp tác kinh tế lẫn hợp tác về những mảng khác, như giáo dục, văn hóa, con người…Úc cũng mong muốn có một ảnh hưởng nhất định nào đó ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Vì từ trước đến nay, họ quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á hải đảo, ví dụ với Philippines, Malaysia, Singapore, Indonesia, bây giờ họ mong muốn mối quan hệ và sự hiện diện của Úc ở cả khu vực Đông Nam Á lục địa nữa, trong đó Việt Nam được coi là một cửa ngõ, một bản lề để Úc có thể xâm nhập sâu hơn vào Đông Nam Á lục địa. Đó là tầm nhìn tương đối chiến lược của Úc đối với Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một mắt xích quan trọng.Từ việc xem Đông Nam Á như là một trọng tâm chiến lược thứ hai, Úc mong muốn có một khả năng bao quát mang tính phòng thủ với những gì mà Trung Quốc đang làm, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông. Những chuyển động gần đây từ AUKUS, từ việc Úc bắt đầu coi Trung Quốc như là một mối đe dọa an ninh lớn, tăng cường quan hệ với các trung cường, như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc…, cho thấy tư duy của Úc hiện nay ngày càng tương đồng với Mỹ, với các quốc gia đồng minh của Mỹ, xem Trung Quốc làm một mối đe dọa lớn.ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cách thức Úc sẽ đối phó với quá trình trỗi dậy của Trung Quốc trong bối cảnh ảnh hưởng của Trung Quốc lan ngày càng gần tới Úc hơn, đe dọa an ninh quốc gia của Úc hơn bao giờ hết từ Đông Nam Á cho tới cả vấn đề nội bộ của Úc, cũng như ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực các đảo quốc ở Thái Bình Dương. Do đó, vai trò của ASEAN sẽ rất quan trọng.RFI : Song song đó, chúng ta cũng thấy là Canberra đang tìm cách cải thiện quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, đối tác lớn của Úc. Liệu đây có phải là một điểm hạn chế trong phạm vi hoạt động hợp tác của Úc với các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Việc Úc cố gắng tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc sẽ không làm ảnh hưởng mối quan hệ hiện nay với ASEAN và đặc biệt, cũng sẽ không tác động lớn tới việc Úc xích lại gần Mỹ, cũng như với những dự án an ninh của Úc với Mỹ cùng các đồng minh, như AUKUS.Dù gì Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có trọng lượng kinh tế lớn nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Không một quốc gia nào trong khu vực có thể loại bỏ được ảnh hưởng này của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Úc cũng có một chính sách không hoàn toàn tách ra khỏi Trung Quốc, ví dụ về mặt khai khoáng, hoặc những mặt hàng nông sản của Úc vẫn cần thị trường Trung Quốc.Cho nên việc Úc tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc một mặt giúp cho mối quan hệ giữa Úc và Trung Quốc ổn định hơn, từ đó sẽ giúp cho Úc tìm kiếm, định hình lại lợi ích của Úc với Trung Quốc. Việc đó giúp cải thiện một số yếu tố kinh tế cũng như chính trị trong nội bộ Úc. Và đó chỉ là một phần trong quá trình tái định hình chính sách của Úc và sẽ không ảnh hưởng nhiều tới mối quan hệ của Úc với ASEAN, với Việt Nam, cũng như là với các nước khác ngoài khu vực.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.
3/11/2024 • 10 minutes, 27 seconds
Việt Nam : Đảng “quyết liệt” diệt tham nhũng do tình trạng sức khỏe của tổng bí thư?
Đảng và Nhà nước coi tham nhũng là "giặc nội xâm". "Công cuộc đốt lò" năm 2023 đã buộc "9 cán bộ diện Trung ương quản lý thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác" (1), trong đó có chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, ba bộ trưởng liên quan đến các vụ Việt Á, “chuyến bay giải cứu” tại Cục lãnh sự, bộ Ngoại Giao. Năm 2023, số vụ phạm tội tham nhũng và chức vụ được phát hiện tăng 51,63%, theo số liệu được bộ trưởng Công An Tô Lâm công bố (2). Năm 2024 được đánh dấu với đại án Trương Mỹ Lan - tập đoàn Vạn Thịnh Phát bị đưa ra xét xử trong hai tháng 3 và 4 liên quan đến nhiều cán bộ Nhà nước. Báo mạng Gavroche-thailande nhận định vụ Vạn Thịnh Phát, với số tiền chiếm đoạt lên tới 304.000 tỷ đồng (12,4 tỷ đô la), có lẽ là vụ tham nhũng lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á, vượt qua cả vụ biển thủ 4,4 tỷ đô la từ quỹ 1MDB ở Malaysia.Tình trạng tham nhũng và chống tham nhũng tại Việt Nam được thể hiện qua hai ý trong câu hỏi được nêu trong hội thảo ngày 18/10/2023 của Ban Nội chính Trung ương ở Hà Nội : "Chúng ta đã quyết liệt xử lý cán bộ, vì sao vẫn xảy ra nhiều vụ án tham nhũng lớn ?". Chủ trương chống tham nhũng trong năm 2024 sẽ "tiếp tục tinh thần của tổng bí thư" là "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai", với chủ trương 6 "hơn", trong đó có "năm nay phải tốt hơn năm trước". Đọc thêm : Việt Nam: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc buộc từ chứcTuy nhiên, một số nhà quan sát e rằng chiến dịch chống tham nhũng quyết liệt tác động đến ổn định về kinh tế. Nhiều lãnh đạo địa phương hoặc cán bộ "ngại" ký các hợp đồng đầu tư vào cơ sở hạ tầng do sợ bị cáo buộc tham nhũng. Một số khác, được trang Gavroche trích dẫn, cho rằng các cuộc điều tra tham nhũng trong lĩnh vực tư nhân tác động đáng kể đến lòng tin của các doanh nghiệp ở Việt Nam, dẫn đến tâm lý lo ngại chung về các cuộc điều tra và giám sát của đảng Cộng sản (3).Một hệ quả khác của "công cuộc đốt lò" là hiện giờ, dường như ông Nguyễn Phú Trọng chưa tìm được người thay thế dù đã già yếu và giữ chức tổng bí thư ba nhiệm kỳ liên tiếp. Đây là một trong những nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.RFI : Trong cuộc họp ngày 01/02/2024, Ban Chỉ đạo Trung ương nhấn mạnh “Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực : Năm nay phải tốt hơn năm trước”. Ngay đầu năm đã có hàng loạt đại án tham nhũng. Liệu 2024 sẽ là “năm chống tham nhũng” của Việt Nam ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên, việc gia tăng chống tham nhũng ở Việt Nam cho thấy một điều, đó là cuộc chiến kế thừa vị trí của ông Nguyễn Phú Trọng giờ đã được khởi động. Thường thì cuộc đua diễn ra vào năm trước kỳ Đại hội Đảng, giờ còn đến hai năm nữa, nhưng điều này diễn ra trong bối cảnh tình trạng sức khỏe khó lường của tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những tin đồn về sức khỏe của ông.Năm trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, thay đổi thành phần lãnh đạo Nhà nước, là năm đầy những chiến dịch chống tham nhũng. Cũng cần biết là khi chính quyền Việt Nam tung một chiến dịch chống tham nhũng thì ẩn sau những phát biểu tốt đẹp thường còn có ý đồ làm mất uy tín hoặc bỏ tù những nhân vật chủ chốt của phe cạnh tranh chính trị.Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 14 dự kiến tổ chức tháng 01/2026. Hiện có nhiều thắc mắc về tình hình sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng, cho nên, nếu nhìn từ khía cạnh này thì chiến dịch chống tham nhũng rầm rộ hiện nay là chuyện bình thường. Nhưng để hiểu thực sự về việc tăng cường mạnh mẽ chiến dịch này, câu hỏi đặt ra : Ai là người kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng ? Đọc thêm : Việt Nam Đại hội XIII: Tận dụng triệt để "thành công" trong năm 2020 để duy trì tính chính đáng của ĐảngChúng ta thấy tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương đảng khóa 13 tháng 10/2023, ông Nguyễn Phú Trọng quyết định đứng đầu Tiểu ban Nhân sự (chuẩn bị Đại hội lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương đảng). Điều vô cùng ngạc nhiên là ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu tiểu ban này. Việc này có thể diễn giải là thứ nhất, sức ảnh hưởng của ông vẫn rất lớn ; thứ hai là ông chưa tìm được những người kế nhiệm rõ ràng tại hội nghị tháng 10/2023.Cuối cùng, tôi cho rằng việc gia tăng chống tham nhũng trong năm 2024 còn cho thấy, vì chưa có người kế nhiệm nên ông Nguyễn Phú Trọng cần khẩn trương tìm ra một lãnh đạo tương lai nếu nhìn vào tình trạng sức khỏe của ông hiện nay. Nói một cách khác, những gì diễn ra trong năm nay (2024) là điều lẽ ra đến năm tới (2025) mới diễn ra.RFI : Trong một hội thảo được Ban Nội chính Trưng ương tổ chức ngày 18/10/2023 tại Hà Nội, một câu hỏi đã được đặt ra : "Chúng ta đã quyết liệt xử lý cán bộ, vì sao vẫn xảy ra nhiều vụ tham nhũng lớn, tiêu cực lớn, gây bức xúc trong dư luận ?" Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng này ?Benoît de Tréglodé : Tôi không muốn sa vào đánh giá chung hoặc mang tính khiêu khích, nhưng ở Việt Nam là "phải tham nhũng". Để làm chính trị ở Việt Nam thì phải có tiền, phải có sự hậu thuẫn của một doanh nhân, phải có ngân sách lớn để có thể thăng tiến trong môi trường chính trị.Ngược lại, để làm ăn, để kinh doanh ở Việt Nam thì cũng cần sự ủng hộ của một chính trị gia. Nhìn chung, giống như ở Trung Quốc, người ta thường thấy trong guồng máy chính trị hiện tượng mua quan bán chức và phải có tiền. Hiện tượng này làm lưu thông những khối lượng tiền lớn và gây bức bối bên trong hệ thống chính trị. Đọc thêm :Thanh trừng chống tham nhũng : Ban lãnh đạo Việt Nam sẽ nghiêng về Trung Quốc nhiều hơn?Tôi muốn nói đến hệ quả thứ hai của hiện tượng này, đó là những tranh cãi trên thượng tầng Nhà nước cho thấy cạnh tranh về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân, giữa các phe phái, các nhóm nhưng không hẳn thể hiện rằng hệ thống bị suy yếu. Không phải vì có những chiến dịch chống tham nhũng, vì có những trường hợp tham nhũng, mà hệ thống kinh tế bị suy yếu. Ngược lại, ở một khía cạnh nào đó và đây cũng là điều nghịch lý, chế độ chính trị lại được củng cố hơn nhờ những vụ tham nhũng này.Công cuộc "hiện đại hóa đất nước" diễn ra thông qua việc tham nhũng đại trà ở mọi tầng lớp trong xã hội. Mức lương vẫn còn thấp trong khu vực hành chính và tư nhân, số người giàu trong xã hội đã tăng lên, cho nên tiền phải đến từ đâu đó.RFI : Chiến dịch chống tham nhũng có quy mô lớn này mang lại những kết quả nào cho Đảng và Nhà nước ? Benoît de Tréglodé : Khi theo dõi đời sống chính trị Việt Nam, người ta nhận thấy có một khái niệm quan trọng, đó là các cuộc khủng hoảng được coi là có lợi cho chính quyền để có thể tiếp tục tồn tại, vững mạnh hơn và trường tồn.Nhìn từ khía cạnh này, trên bình diện quốc tế, từ lâu người ta vẫn nhắc đến những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Đây là một cuộc khủng hoảng có lợi cho chính quyền Việt Nam, bởi vì những vụ tranh chấp đó làm tăng tính chính đáng của đảng Cộng sản, được coi là người đang bảo vệ đất nước, bảo vệ người dân khỏi những vụ tấn công của nước ngoài.Về chính trường trong nước, các chiến dịch chống tham nhũng thực sự là một cuộc khủng hoảng có lợi cho lãnh đạo Nhà nước, cho tổng bí thư đảng Cộng sản, để thể hiện với nhân dân rằng đảng Cộng sản đang ở đây bảo vệ họ, đảng ở đây để thường xuyên tóm những con cá lớn, bảo vệ lợi ích của những người thấp cổ bé họng, dù đều là ảo tưởng. Rất ít người Việt Nam tin hoàn toàn vào thực tế của những chiến dịch chống tham nhũng trong giới chính trị. Đọc thêm : Chống tham nhũng trên thượng tầng : Việt Nam không để tác động đến lực hút đầu tư nước ngoàiRFI : Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng tại vị cho đến năm 2026. Tương lai của chiến dịch chống tham nhũng sẽ ra sao, trong khi dường như ông hiện là người đấu tranh nhiệt thành duy nhất ?Benoît de Tréglodé : Trước hết, rất khó đưa ra được bất kỳ dự đoán nào trong bầu không khí bí hiểm như hiện nay. Điều gần như chắc chắn hiện nay là ông Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục giữ chức tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam cho đến hơi thở cuối cùng. Khi đứng đầu Tiểu ban Nhân sự ở Đại hội tháng 10/2023, ông đã cho thấy rằng kế nhiệm ông là một vấn đề nhạy cảm và nhân vật đó chưa được chọn.Ông Nguyễn Phú Trọng thực sự muốn đích thân tác động đến việc lựa chọn người lãnh đạo tương lai của Đảng. Như vậy, khi kiểm soát các chiến dịch chống tham nhũng mới, hiện rất mạnh mẽ trong năm 2024, ông còn cho thấy chính ông là người sẽ quyết định tương lai của Việt Nam.Điểm tương đối mới hiện nay, đó là chúng ta chưa thấy những gương mặt nổi trội có tiềm năng kiêm nhiệm cùng lúc 3, 4 chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thứ nhất, đó là vì ông Nguyễn Phú Trọng vẫn có trọng lượng và ảnh hưởng rất lớn trong đời sống chính trị Việt Nam. Tiếp theo, cũng là vì ngày càng có ít thông tin rò rỉ ở Việt Nam kể từ khi luật an ninh mạng được áp dụng năm 2019. Luật này rất linh hoạt và quản lý rất nghiêm ngặt mọi rò rỉ chính trị về vấn đề nhân sự này.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp.(1) Báo Điện tử Chính phủ, "Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Năm nay phải tốt hơn năm trước".(2) Nhân dân, "Số vụ phạm tội về tham nhũng và chức vụ được phát hiện tăng 51,63% trong 12 tháng".(3) Gavroche-thailande.
3/4/2024 • 8 minutes, 51 seconds
Việt Nam chừng mực - Philippines cứng rắn: Hai cách bảo vệ chủ quyền trước Trung Quốc ở Biển Đông
Việt Nam và Philippines muốn khôi phục niềm tin và giảm thiểu các sự cố có thể xảy ra giữa hai nước khi thông qua hai bản ghi nhớ an ninh ký ngày 30/01/2024 về “ngăn ngừa sự cố ở Biển Đông” và “hợp tác trên biển”. Tuy nhiên, theo một số nhà phân tích, không nên coi sự kiện đó thể hiện lập trường thống nhất giữa Manila và Hà Nội trong việc đẩy lùi các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Philippines có lập trường cứng rắn hơn, trông cậy vào liên minh với Mỹ nhiều hơn kể từ khi ông Marcos Jr. làm tổng thống. Sự xoay trục này có thể có lợi cho Việt Nam, nhưng Hà Nội không có chung cách tiếp cận với Manila. Việt Nam thận trọng, khẳng định chủ quyền nhưng không rầm rộ phản đối theo cách của Philippines. Đây là một trong những nhận định với RFI Tiếng Việt của giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á Daniel K. Inouye (DKI APCSS) tại Hawai, Mỹ.RFI : Việt Nam và Philippines ký hai bản ghi nhớ về an ninh về “ngăn ngừa sự cố ở Biển Đông” và “hợp tác trên biển” giữa lực lượng tuần duyên hai nước. Hai văn bản này có lợi ích như nào cho hai nước cũng có tranh chấp chủ quyền đối với một số thực thể ở Biển Đông ? GS. Alexander Vuving : Tôi nghĩ là bất kỳ sự hợp tác nào giữa Việt Nam và Philippines trên biển đều tốt cho cả hai nước bởi vì hai nước có đòi hỏi chủ quyền chồng lấn lên nhau, đặc biệt là ở khu vực quần đảo Trường Sa, một phần lớn khu vực đó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Khi Việt Nam đòi hỏi chủ quyền trên một số đảo-đá ở đó thì có sự chồng lấn, rất dễ gây ra những sự cố, những tranh chấp. Bất kể một thỏa thuận nào về hợp tác trên biển giữa lực lượng tuần duyên hai nước, ngăn ngừa sự cố đều hết sức có lợi cho hai quốc gia.Đặc biệt hơn, Việt Nam và Philippines là hai nước mà không nước nào lớn hơn hẳn nước kia để có thể “bắt nạt” nước kia. Có nghĩa là khi Việt Nam và Philippines ngồi lại đàm phán với nhau thì đó là một cuộc đàm phán tương đối bình đẳng. Cho nên kết quả cuộc đàm phán nói chung là tương đối công bằng cho cả hai bên. Tôi nghĩ là những bản ghi nhớ vừa ký giữa lực lượng tuần duyên của hai nước, dù không rõ nội dung cụ thể là gì vì họ không công bố, nhưng có thể hiểu rằng thỏa thuận sẽ có lợi cho cả hai nước. Đồng thời có thể nói rằng họ có những thỏa thuận về cách thức để cho hai bên hành xử như thế nào đó để giữ được hợp tác, ngăn ngừa những sự cố thì đó cũng có thể coi là bước đầu tiên tiến tới một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông.Như chúng ta biết là từ hàng chục năm nay, các nước ASEAN và Trung Quốc đã thương thảo Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông và không đi đến được thỏa thuận nào cụ thể. Tôi nghĩ là bởi vì trong trường hợp này, Trung Quốc đòi hỏi quá xa và gần như vi phạm nguyên tắc cơ bản của Luật Biển Quốc Tế, trong khi một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines muốn rằng Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông phải đi đúng tinh thần của luật quốc tế, nhất là Luật Biển Quốc Tế. Ở đây, chúng ta có Việt Nam và Philippines cùng đồng ý dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế.Tôi hy vọng những thỏa thuận của hai nước là những bước tiến thực chất và tiến bộ trong việc hình thành Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông, trước hết là song phương giữa Việt Nam và Philippines, sau này có thể mở đa phương với một số nước khác ở Đông Nam Á.RFI : Trung Quốc đòi hầu hết chủ quyền đối với Biển Đông, chồng lấn với Việt Nam và Philippines. Nhưng hai nước Đông Nam Á này lại có cách cư xử khác nhau đối với Trung Quốc !Alexander Vuving : Mỗi một nước có cách cư xử khác nhau, kể cả ngay bản thân mỗi nước lại có cách cư xử khác nhau trong từng thời kỳ. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự cư xử này. Thứ nhất là hoàn cảnh khác nhau khiến người ta cư xử khác nhau. Thứ hai, ngay trong bản thân nội bộ mỗi nước lại có cách hiểu hoàn cảnh khác nhau khi lãnh đạo thay đổi một chút.Một điểm quan trọng nữa là mỗi nước có kinh nghiệm lịch sử khác nhau. Việt Nam có kinh nghiệm lịch sử với Trung Quốc rất khác với Philippines. Cho nên cách ứng xử trên cơ sở kinh nghiệm lịch sử cũng rất khác nhau. Thêm nữa, ngay bản thân mỗi nước, tuy họ chung một kinh nghiệm lịch sử nhưng mỗi một cá nhân, một nhóm lãnh đạo lại rút ra những bài học khác nhau từ cùng một kinh nghiệm lịch sử cho nên họ có cách cư xử khác nhau.RFI : Philippines thể hiện cứng rắn hơn trong hành động và lời nói, lên án những hành động hăm dọa của tầu thuyền Trung Quốc trong những vùng biển Manila đòi chủ quyền, đặc biệt trong thời gian gần đây. Tuần duyên Philippines hiện giờ cố tỏ ra minh bạch hơn, cập nhận thông tin thường xuyên hơn với báo chí về hoạt động của tầu Trung Quốc. Nhưng dường như Việt Nam không theo chủ trương này ?Alexander Vuving : Hành xử của Philippines đối với Trung Quốc hiện nay, đặc biệt là ở trong khu vực Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), phải nói thẳng là khác hẳn với chính cách cư xử của Philippines trong thời kỳ tổng thống Duterte bởi những lý do tôi nói ở trên về cách hiểu của lãnh đạo, cách lãnh đạo rút ra bài học từ cùng một kinh nghiệm lịch sử.Tuy nhiên, cách cư xử hiện nay của Philippines ở Bãi Cỏ Mây lại tương đối giống cách hành xử của Việt Nam cách đây khoảng 10 năm vào thời kỳ giàn khoan Hải Dương 981. Theo tôi hiểu, lãnh đạo hiện nay của Philippines, đặc biệt là tổng thống Marcos Jr., đã học được những bài học lịch sử từ những cách ứng xử của Philippines, kể cả của Việt Nam với Trung Quốc trong một, hai thập niên qua. Đặc biệt tôi nghĩ rằng họ cũng đã học được bài học từ chính cách hành xử của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời kỳ giàn khoan Hải Dương 981.Chính thời đó, Việt Nam, cũng tương tự Philippines hiện nay, giữ thế của mình, không để Trung Quốc lấn lướt, tìm cách minh bạch. Thậm chí, Việt Nam còn đưa phóng viên quốc tế trên tầu cảnh sát biển Việt Nam ra tận nơi để chứng kiến, thu hình, nghi âm và viết bài, đưa thành một vấn đề quan trọng, nóng hổi trong thời sự quốc tế. Philippines hiện nay cũng tương tự như vậy, có những chuyến tầu đưa phóng viên quốc tế ra tận nơi để ghi lại những sự kiện đó, họ minh bạch thông tin.Thế nhưng hiện nay, Việt Nam không hành xử kiểu như vậy nữa. Cách hành xử của Việt Nam gần như đi ngược lại cách ứng xử thời kỳ giàn khoan 981. Tức là suốt từ khoảng năm 2017 trở lại đây, Trung Quốc liên tục đưa tầu tầu hải cảnh, tầu dân quân biển vào sách nhiễu hoạt động kinh tế ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong những vùng khoan dầu khí của Việt Nam, thậm chí có những lúc khiến Việt Nam hủy bỏ hợp đồng, tốn kém đến cả tỉ đô la bồi thường cho các công ty. Thiệt hại rất lớn cho Việt Nam nhưng chính phủ không hề đưa thông tin ra ngoài như thời giàn khoan 981. Công luận Việt Nam gần như không động đậy gì. Đó là sự khác biệt rất lớn. Chúng ta không biết cụ thể tại sao. Tuy nhiên, có thể có một vài giải thích như sau.Thứ nhất, Việt Nam học được bài học. Tức là từ cùng một sự kiện giàn khoan 981, có người rút ra bài học : Muốn giữ được chủ quyền với Trung Quốc thì phải kiên quyết đối với họ, không được lùi bước, phải giữ những gì mình có quyền chiểu theo Luật Biển quốc tế, đồng thời phải hết sức minh bạch, đưa các nhà báo quốc tế, đưa công luận quốc tế vào để cho thế giới trông thấy sự thật. Đó là một bài học mà có thể một số người ở Việt Nam và ở Philippines đã rút ra và họ áp dụng hiện nay ở Bãi Cỏ Mây.Ngoài ra, người ta cũng có thể rút ra một bài học khác nữa. Bởi vì trong thời kỳ giàn khoan đó, ở Việt Nam đã xảy ra những sự kiện, biểu tình dẫn đến việc sát hại một số công nhân Trung Quốc, ví dụ làm việc ở khu vực Hà Tĩnh, rồi hàng loạt vụ phá hoại những công xưởng có chữ Hoa. Hồi đó đại đa số những công xưởng bị đập phá là của Đài Loan, chứ không phải Trung Quốc. Điều đó gây ra những bất ổn rất ghê gớm, gây rất nhiều thiệt hại về tài sản cho các công ty nước ngoài ở Việt Nam.Từ đó, có thể có một số người rút ra bài học : Nếu căng thẳng với Trung Quốc mà thông tin được đưa ra thì nhân dân sẽ bị lợi dụng và có thể dẫn đến những phản ứng quá khích, gây hậu quả xấu ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam, thậm chí ảnh hưởng đến quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc… Bài học rút ra : Từ giờ, nếu có chuyện gì xảy ra ở Biển Đông, trừ trường hợp Trung Quốc đi quá vạch đỏ, như đặt một giàn khoan, còn nếu họ chỉ sách nhiễu, đưa tàu bè vào quấy nhiều thì thôi, cố gắng im lặng để tránh gây ra những sự kiện như thế.Còn một vấn đề nữa được gọi là “những ưu tiên chiến lược của lãnh đạo”. Như đã nói ở trên, Philippines thời tổng thống Duterte có những ưu tiên chiến lược khác với tổng thống Marcos Jr. hiện nay. Ông Duterte rất là nhũn với Trung Quốc. Khi Trung Quốc gây hấn thì ông không làm mạnh vì sợ gây ra chiến tranh bởi vì ưu tiên chiến lược của ông Duterte, về mặt quốc nội là chống ma túy, về đối ngoại là hướng tới thế ngoại giao cân bằng hơn. Ông Duterte không tin tưởng vào Hiệp ước Phòng thủ chung giữa Philippines và Mỹ, ông nghĩ đó chỉ là tờ giấy lộn và Mỹ không thực sự cam kết với thỏa thuận đó.Đây cũng là một kinh nghiệm lịch sử của ông Duterte đối với những gì mà tổng thống Mỹ Obama hành xử với Philippines năm 2012 khi có tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc ở khu vực bãi cạn Scarboroug. Khi đó Mỹ, thay vì đứng ra bảo vệ Philippines, lại đề xuất làm trung gian hòa giải. Chính vì thế Philippines mất Scarborough về tay Trung Quốc. Nhưng hiện nay, tổng thống Marcos Jr. lại có suy nghĩ khác và nhận thấy Mỹ đã có những cam kết mạnh mẽ hơn đối với Hiệp ước phòng thủ song phương cho nên ông ấy đã thể hiện cứng rắn hơn ở trong khu vực Bãi Cỏ Mây.Phải nói là ưu tiên chiến lược của mỗi lãnh đạo khác nhau. Rất có thể lãnh đạo Việt Nam bây giờ có những ưu tiên chiến lược khác so với thời kỳ năm 2014. Tuy cùng một tổng bí thư nhưng thủ tướng khác, rồi hoàn cảnh điều kiện khác.RFI : Việt Nam hiểu rằng tranh chấp ở Biển Đông sẽ kéo dài và tìm cách tránh xung đột quân sự. Vậy Việt Nam có chiến lược cụ thể như nào để có thể bảo vệ đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông ?Alexander Vuving : Về mặt chính thức, Việt Nam có mấy “K”, tức là “kiên quyết”, “kiên trì”… Còn cụ thể, chiến lược của Việt Nam ở Biển Đông, tôi tạm gọi là “mỗi thứ một chút”. Tức là Việt Nam sử dụng hầu như các công cụ từ quyền lực cứng đến quyền lực mềm để ứng xử với Trung Quốc ở Biển Đông.Quyền lực cứng như là tìm cách tăng cường lực lượng quân sự, đặc biệt trong chiến lược quân sự của Việt Nam có vấn đề hiện đại hóa quân đội, nhất là các binh chủng Hải quân và Không quân - những lực lượng sử dụng nhiều ở Biển Đông - thì đi trước một bước, tức là mua sắm nhiều trang thiết bị, tăng cường khả năng phòng thủ. Ngoài ra còn trang bị thêm cho những lực lượng bán quân sự như hải cảnh, dù không được bằng Trung Quốc nhưng dùng phương pháp “chiến tranh nhân dân” trên biển. Ngoài những biện pháp quân sự như vậy, Việt Nam còn thông qua những biện pháp phi quân sự, như giữ vững chủ quyền ở khu vực đặc quyền kinh tế bằng những hoạt động kinh tế, đặc biệt là khai thác dầu khí. Việt Nam cũng rất chú trọng đến hợp tác với các công ty dầu khí nước ngoài, của những nước lớn đứng sau, chẳng hạn của Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản để giữ chủ quyền ở Biển Đông. Có thể nói đây là một hình thức phần nào “quốc tế hóa”, dùng lực lượng phi quân sự từ bên ngoài răn đe Trung Quốc ở Biển Đông.Tiếp theo, trên các diễn đàn quốc tế, Việt Nam rất chịu khó đưa vấn đề Biển Đông ra cho các nước bàn thảo và để lôi kéo về phía mình, đặc biệt là giương cao ngọn cờ luật pháp quốc tế. Chẳng hạn Việt Nam lập ra một nhóm bạn bè ủng hộ Công ước Quốc tế về Luật Biển ở Liên Hiệp Quốc. Lúc đầu có khoảng hơn 10 nước, trong đó Việt Nam và Đức đồng chủ trì, hiện nay đã có 110-120 nước, có cả Nga và Trung Quốc.Ngoài ra, mỗi khi có tuyên bố chung giữa lãnh đạo Việt Nam với các nước, đều có câu nói về vấn đề Biển Đông. Việt Nam tìm mọi cách, phương pháp ngoại giao để lôi kéo các nước ủng hộ lập trường của mình ở Biển Đông rằng tuân thủ luật pháp quốc tế, hợp tác về kinh tế để đưa các nước vào nhằm tạo sự đan xen lợi ích của nước ngoài với mình, kể cả với Trung Quốc để làm cho họ bớt hung hăng, bớt chèn ép. Đó cũng là một phương pháp. Có hiệu quả hay không lại là một chuyện khác. Việt Nam cũng dùng cả tình đoàn kết anh em giữa hai đảng Cộng sản, một hình thức “quyền lực mềm” để làm Trung Quốc bớt hung hăng.Tóm lại, Việt Nam tìm mọi cách, mỗi thứ một chút, từ cứng cho đến mềm. Tuy nhiên, có thể hiểu là chiến lược của Việt Nam có rất nhiều mũi tên theo rất nhiều hướng. Nhưng mũi tên đó lúc dài lúc ngắn tùy theo thời kỳ. Về hiệu quả, cũng có lúc hiệu quả hơn, cũng có lúc kém hiệu quả.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh Đông Nam Á tại Hawai, Hoa Kỳ.
2/26/2024 • 12 minutes, 31 seconds
François Bibonne và bản giao hưởng bóng đá Việt Nam
Sau bộ phim đầu tay “Once upon a bridge in Vietnam“ ( Ngày xưa có một nhịp cầu ở Việt Nam ), từng đoạt giải Phim tài liệu ngắn tại Los Angeles (Mỹ), đạo diễn trẻ mang hai dòng máu Pháp Việt François Bibonne vào tháng 11 vừa qua đã trở lại Việt Nam với dự án phim tiếp theo cũng về sự giao thoa giữa Pháp và Việt Nam, nhưng lần này nói về bóng đá, môn thể thao mà dân Việt Nam rất mê. Đó là bộ phim “The Symphony Wins” ( Bản giao hưởng chiến thắng ). Trả lời RFI Việt ngữ, đạo diễn Francois Bibonne trước hết giải thích vì sao anh chọn đề tài bóng đá cho bộ phim tài liệu thứ hai của mình: “Tôi đã từng nghe nói về bóng đá Việt Nam, đầu tiên là về đội tuyển bóng đá nữ, mà ngay cả báo chí Pháp cũng đã nói đến khi họ lọt vào vòng chung kết Cúp thế giới. Tiếp đến, ông Philippe Troussier, trước đây là huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia của Nhật Bản, đã được chọn để dẫn dắt đội tuyển nam của Việt Nam. Có rất nhiều yếu tố thúc đẩy tôi tìm hiểu về vai trò của môn bóng đá ở Việt Nam. Tôi muốn tiếp tục khám phá văn hóa Việt Nam, nhưng lần này là không phải là qua âm nhạc, mà là qua bộ môn bóng đá. Đúng là có rất nhiều điều thú vị.Đây quả là môn thể thao được ưa chuộng nhất ở Việt Nam, gây rất nhiều phản ứng cuồng nhiệt. Khắp nơi đều có các đội bóng đá, không chỉ ở thành phố mà ở thôn quê người ta cũng chơi bóng đá. Người dân tộc thiểu số cũng chơi môn này. Tóm lại cả nước chơi bóng đá! Họ còn nắm rất rành về bóng đá quốc tế, hơn cả tôi. Họ theo dõi sát các trận của giải bóng đá Anh Premier League, thuộc tên từng cầu thủ trong đội PSG… Nói chung là dân Việt Nam rất “trung thành” với bóng đá. Tôi cũng thấy là ở có nhiều trường dạy bóng đá và có nhiều cầu thủ từ các nước khác đến đá trong các câu lạc bộ của Việt Nam ở Hà Nội hay ở Sài Gòn, nhờ vậy trình độ của bóng đá Việt Nam cũng được nâng cao. Tôi thấy Việt Nam là một quốc gia gia rất đoàn kết, một quốc gia còn rất trẻ và có thể nói bóng đá là một trong những cột trụ chính của đất nước. Bộ phim đầu tiên của tôi là nói về âm nhạc với yếu tố căn bản là dàn nhạc, còn lần này chính là đội tuyển bóng đá. Ở Pháp, khi đội tuyển quốc gia thi đấu chúng tôi rất hứng khởi, nhưng ở Việt Nam sự hứng khởi có lẽ lớn hơn nhiều, vì người dân rất ủng hộ đội tuyển quốc gia, ngay cả ở các vùng nông thôn và các vùng sắc tộc thiểu số.” Chính nhờ đã được biết đến nhiều ở Việt Nam qua bộ phim đầu tay “ Once upon the bridge in Vietnam”, cho nên François Bibonne đã được sự trợ giúp của giới báo chí trong nước để tiếp cận được huấn luyện viên đội tuyển Việt Nam Philippe Troussier: “Tôi đã tiếp xúc với Philippe Troussier bằng cách nhắn tin trên mạng Facebook nhờ người tìm dùm. Khi đọc được tin nhắn này, một số nhà báo Việt Nam đã liên lạc ngay với tôi và qua trao đổi thông tin, tôi đã có được địa chỉ email của Philippe Troussier, rồi có được số điện thoại của ông ấy. Sau mấy lần trao đổi với ông ấy, tôi đã có thể đến Liên đoàn Bóng đá Việt Nam để làm việc cho bộ phim. Tôi cũng được cấp thẻ phóng viên cùng với người bạn Louis, đi cùng với tôi trong chuyến quay phim đầu tiên, nên cả hai chúng tôi đã được phép vào xem các buổi tập luyện, quay phim và phỏng vấn, rồi từ đó tiếp cận được những người khác. Philippe Troussier là một huấn luyện viên khác hẳn những người tiền nhiệm. Ông nhậm chức vào thời điểm khó khăn đối với ông, bởi vì đội tuyển Việt Nam vừa giành chiến thắng trong giải SEA Games dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên người Hàn Quốc Park Hang Seo. Kế thừa một đội tuyển như vậy không đơn giản chút nào. Ông đã cải tổ lại cơ cấu đội tuyển, thay đổi rất nhiều tuyển thủ, điều mà không phải ai cũng hài lòng. Ông đã dám làm như thế vì ông không sợ làm những thay đổi lớn trong đội tuyển Việt Nam, như ông đã làm đối với đội tuyển Nhật Bản. Ông đã gặt hái nhiều thành công ở Nhật và rất tin tưởng đi theo cùng con đường đó.Không chỉ là huấn luyện viên, Troussier còn là một người rất trí thức, có thể nói về nhiều chủ đề và chính ông đã khiến tôi mong muốn đem vào phim một tầm mức nghệ thuật. Tôi đã phỏng vấn ông ấy về âm nhạc, thậm chí hỏi ông ấy có tự xem mình là như một nhạc trưởng mà các nhạc sĩ chính là các cầu thủ hay không? Tôi rất thích sự so sánh đó. Ông không chỉ là một huấn luyện viên bóng đá, mà là một nhân vật độc đáo.” Như tên gọi của dự án phim tài liệu thứ hai, “The Symphony Wins”, trong phim, François Bibonne lồng vào đó rất nhiều giai điệu, đặc biệt là những làn điệu nhạc dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên:“Điều thấy rõ nhất, đó là khi xem các trận đấu bao giờ cũng có tiếng nhạc kèm theo, có những cổ động viên khua trống, có các đội kèn đồng, có những người hát quốc ca. Nhưng ngoài những điều đó, tôi muốn làm một cái gì đó mang tính nghệ thuật, dùng hình ảnh để gắn liền âm nhạc dân tộc Việt Nam với thể thao, mà ở đây là bóng đá. Tôi đặc biệt muốn nêu bật các nhịp điệu qua những nhạc cụ gõ như cồng chiêng của dân tộc thiểu số, như dân tộc Ba Na. Tôi đã quay người dân tộc Ba Na đánh cồng chiêng. Ta có thể ghép tiếng cồng chiêng với âm thanh khi cầu thủ chạm quả bóng. Nhưng không chỉ có tiếng chân cầu thủ chạm vào quả bóng, mà còn có nhảy cao, chạy nhanh, tung hứng như những nghệ sĩ xiếc, nhảy múa, …Ngoài bóng đá ở Việt Nam, tôi muốn nói đến bóng đá nói chung, để cho thấy cái đẹp của nó, không chỉ là một môn thể thao rất được ưa chuộng.”Cũng chính là qua một tháng ở Việt Nam để thực hiện bộ phim mà chàng trai mang hai dòng máu Pháp Việt đã một lần nữa được trở về nguồn và nhất là được khám phá văn hóa của các sắc tộc thiểu số: “Tôi đã bắt đầu ở Hà Nội, rồi sau đó đã đến Kon Tum và Pleiku. Tôi đến Pleiku vì ở đó có trường dạy bóng đá nổi tiếng với một phương pháp khá đặc biệt. Cũng nhân dịp này tôi tìm hiểu về các sắc tộc thiểu số ở vùng này. Gặp gỡ người dân sắc tộc Ba Na gây ấn tượng mạnh cho tôi, vì họ là những người rất gắn bó với văn hóa Pháp, thậm chí đã yểm trợ quân đội Pháp trong thời gian Chiến tranh Đông Dương. Họ là những người rất cởi mở, tôi đã ăn uống với họ, trải qua những buổi tối với họ, tôi thậm chí đã đi dự lễ với họ lúc 4 giờ 30 sáng để quay thánh lễ, thu âm những bài hát bằng tiếng Ba Na thật hay, cũng như thu âm tiếng cồng chiêng. Một lần nữa tôi giống như đang một lần nữa trở về nguồn gốc của mình, hiểu thêm về văn hóa Việt Nam. Cũng nhờ chuyến đi này mà phim của tôi có thêm một chút gì đó mang tính phiêu lưu, không chỉ đến các sân bóng đá, mà còn đi sâu vào các vùng quê để biết thêm về văn hóa địa phương. Dĩ nhiên là thực hiện một bộ phim tài liệu đòi hỏi rất nhiều thời gian, một tháng ở Việt Nam hoàn toàn không đủ để François Bibonne hoàn tất những gì đã dự kiến. Hơn nữa, theo anh, đề tài bóng đá khó hơn là âm nhạc:“Khó khăn đầu tiên của tôi là về thời gian, vì tôi đã chỉ có một tháng, cả tháng 11, trong khi lúc tôi làm bộ phim đầu tiên, do bị kẹt vì đại dịch Covid, tôi đã ở Việt Nam đến 15 tháng. Lần này tôi đã dự trù một tháng, nhưng thời gian đã không đủ để tôi làm tất cả những gì tôi muốn. Nhưng cũng chính điều đó đã thôi thúc tôi phải thực hiện bộ phim nhanh nhất có thể được. Một khó khăn khác là về thời điểm, vì các tuyển thủ có những trận đấu vào những ngày cố định và không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận được các tuyển thủ, họ phải được sự cho phép của đội thì mới trả lời phỏng vấn được.Nói chung là việc thực hiện phức tạp hơn rất nhiều so với bộ phim đầu tiên. Đề tài bóng đá khó hơn là âm nhạc. Cho nên tôi sẽ phải quay lại Việt Nam để tiếp tục quay phim, phỏng vấn và tìm hiểu thêm về bóng đá Việt Nam. Làm phim tài liệu đòi hỏi nhiều thời gian, không thể làm hết mọi việc trong một lần. Nhưng nói chung, tôi gặp nhiều thuận lợi hơn là trở ngại trong đợt quay phim đầu tiên.”Thật ra thì khó khăn lớn nhất đối với François Bibonne chính là vấn đề tài chính, vì anh chưa được một công ty nào bảo trợ, hay đúng hơn là anh quá hào hứng với dự án của mình nên đã không chờ đến khi có bảo trợ rồi mới làm. Nhưng François Bibonne cho biết, trước khi thực hiện tiếp dự án phim, anh sẽ kêu gọi đóng góp tài chính, có thể là qua hình thức crowdfunding ( huy động vốn cộng đồng ), tức là mọi người có thể đóng góp tài chính trên trang mạng của anh www.studiothikoan.com để giúp cho dự án được hoàn thành và “gặt hái được thành công lớn hơn bộ phim đầu”Bộ phim tài liệu đầu tay của François Bibonne "Once upon a bridge in Vietnam" chính là dự án đầu tiên được thực hiện bởi studio Thi Koan mà François Bibonne lập ra và đặt theo tên của bà nội Nguyễn Thị Khoan. Nhà đạo diễn trẻ đã ở Việt Nam trong suốt 15 tháng giữa đại dịch Covid-19, đến dự những buổi hòa nhạc, biểu diễn âm nhạc truyền thống, những buổi tập luyện của các nghệ sĩ, hay đến thăm làng làm kèn đồng ở Nam Định, làng vĩ cầm ở Bắc Giang, tìm hiểu về việc duy trì dân ca quan họ ở Bắc Ninh, về ca trù tại Hà Nội…Thành công đã vượt quá sự mong đợi của nhà đạo diễn trẻ. Không chỉ đoạt giải Phim tài liệu ngắn hay nhất tại Liên hoan Phim Los Angeles, "Once upon a bridge in Vietnam" còn đã được trình chiếu ở rất nhiều nơi tại Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ. Nhân dịp Tết Nguyên đán, vào ngày 22/02/2024, bộ phim của François Bibonne cũng sẽ được chiếu tại tòa thị chính quận 13 Paris, vào lúc 19 giờ.
2/19/2024 • 9 minutes, 38 seconds
Việt Nam - Vatican : Ba thập niên nỗ lực cải thiện quan hệ
Tổng giám mục Ba Lan Marek Zalewski, đại diện thường trú đầu tiên của Vatican tại Việt Nam, nhậm chức ngay đầu năm 2024. Đây là sự kiện mang tính bước ngoặt, cho thấy những nỗ lực không ngừng của Tòa Thánh và Việt Nam trong suốt ba thập niên. Kết quả của quá trình cải thiện quan hệ song phương còn được thể hiện qua chuyến công du Vatican của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tháng 07/2023, tiếp theo là phái đoàn của đảng Cộng sản Việt Nam tháng 01/2024. Sắp tới, Việt Nam dự kiến lần lượt đón ngoại trưởng Tòa Thánh - tổng giám mục Paul Richard Gallagher và hồng y quốc vụ khanh Pietro Parolin.Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 25/01/2024, giảng viên Trần Thị Liên Claire, chuyên về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, Đại học Paris Cité, nhấn mạnh đến vai trò, sự kiên nhẫn bền bỉ của ba nhân tố : Vatican, chính phủ Việt Nam và Giáo hội Việt Nam trong suốt hơn ba thập niên cải thiện quan hệ song phương.RFI : Vatican bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam. Hai bên đã trải qua một chặng đường như thế nào để đi đến được quyết định này ?Trần Thị Liên Claire : Quyết định này là kết quả của một quá trình khá dài, bắt đầu từ năm 1989 trong thời kỳ Đổi mới, lần đầu tiên một đại diện của giáo hoàng Gioan Phaolô II lúc đó là hồng y Etchegaray đã đến thăm Việt Nam. Kể từ đó, Hà Nội luôn duy trì mối quan hệ, trao đổi với đại diện của Tòa Thánh. Kinh tế lúc đó khó khăn và Việt Nam muốn mở cửa. Đến năm 1998, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đặt điều kiện hỗ trợ và mở cửa kinh tế với tự do tôn giáo. Cho nên có thể nói vì lý do kinh tế, Việt Nam đã cố gắng cởi mở về tôn giáo. Đọc thêm : Hồng y Roger Etchegaray qua đờiTừ năm 2009, một tổ công tác hỗn hợp thường xuyên gặp nhau lúc ở Hà Nội, lúc ở Roma để tìm cách tái lập quan hệ ngoại giao. Năm 2011, tổng giám mục Girelli được bổ nhiệm làm đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam. Năm 2023 đánh dấu một chặng mới. Tổng giám mục Zalewski, sứ thần Tòa Thánh ở Singapore kiêm đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam, đã được bổ nhiệm làm đại diện thường trú của Tòa Thánh ở Hà Nội. Và đây là sự kiện đầu tiên kể từ năm 1976 sau khi khâm sứ Tòa Thánh cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam.Trong số những nước Cộng sản còn lại trên thế giới, chỉ có Cuba là có một đại diện như vậy, từ khá sớm, năm 1975 và ba giáo hoàng đã đến Cuba. Việt Nam là nước Cộng sản duy nhất ở châu Á có một đại diện thường trú của Tòa Thánh. Theo tôi, sự kiện này rất đặc biệt và quan trọng đối với cả châu Á, chứ không chỉ riêng Việt Nam.RFI : Có thể thấy là quá trình đàm phán kéo dài vài chục năm. Vậy đâu là những trở ngại để đến bây giờ mối quan hệ được cải thiện ?Trần Thị Liên Claire : Tôi nghĩ các cuộc đàm phán kéo dài trước tiên là vì hai phía có một quá khứ khó khăn và nhiều bất đồng. Nhưng quan trọng hơn cả là hai bên muốn đối thoại nên cần thời gian để lắng nghe, thấu hiểu nhau.Theo tôi, có rất nhiều trở ngại bởi vì kể từ năm 1975, mối quan hệ giữa Giáo hội và chính phủ Việt Nam rất căng thẳng. Ban Tôn giáo kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo, không đến mức đóng hết chủng viện, nhưng đi lại rất khó khăn, nhiều linh mục bị bắt, như linh mục Thuận, cháu của ông Ngô Đình Diệm, bị bắt ngay sau năm 1975. Đến năm 1989 thì mở cửa. Do bị khủng hoảng kinh tế trầm trọng nên Việt Nam phải thoát khỏi thế cô lập, nhất là sau khi quân đội Việt Nam tham chiến ở Cam Bốt, phải tái nhập vào cộng đồng quốc tế, gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (OMC), trong khi Mỹ lại là nước quyết định. Do đó, đạo luật International Religious Freedom Act - IRFA của tổng thống Bill Clinton năm 1998 đã buộc Việt Nam phải cải thiện, phải tỏ thiện chí. Điều này cũng giải thích cho việc Hoa Kỳ công bố báo cáo thường niên về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Đọc thêm : Vatican được bổ nhiệm đại diện thường trú ở Việt Nam, một bước tiến quan trọng giữa hai nướcTôi nghĩ mối quan hệ được cải thiện là kết quả của ba yếu tố. Thứ nhất, ngoài lý do kinh tế, Việt Nam muốn thể hiện rằng khi trở lại trường quốc tế, họ cởi mở và sẵn sàng trao đổi với tất cả các bên. Đó chính là mong muốn tái hội nhập vào cộng đồng quốc tế, chứ không phải là muốn thể hiện khác với Trung Quốc. Nhưng phải nói rằng khả năng đối thoại của Hà Nội với Vatican cao hơn hẳn so với Bắc Kinh. Yếu tố thứ hai là từ thời giáo hoàng Phaolô VI trong thập niên 1960, Vatican có chính sách hòa dịu với khối Cộng sản Đông Âu “Ostpolitik”. Theo đó, ưu tiên đối với Vatican là giáo dân, chiếm thiểu số ở những nước này nên phải sẵn sàng đối thoại với đảng Cộng sản. Giáo hoàng Phaolô VI kêu gọi chấm dứt chiến tranh Việt Nam và phải đối thoại với chính phủ Việt Nam. Có thể thấy ông khá dấn thân trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Vì vậy, giám mục Parolin, hiện là quốc vụ khanh Vatican, đã đóng vai trò rất lớn trong tất cả các cuộc đàm phán. Ông là người đầu tiên đến Việt Nam năm 2004, cách đây 20 năm, và hiểu rất rõ Việt Nam do theo dõi các cuộc đàm phán trong suốt thời gian qua. Phía Việt Nam cũng biết ông rất rõ. Tôi cho rằng chính sự kiên nhẫn và khả năng trao đổi của ngoại trưởng và đặc biệt là của hồng y Parolin - người cũng theo dõi mối quan hệ với Trung Quốc - đã mang lại kết quả.Yếu tố cuối cùng là vai trò của Giáo hội Việt Nam, đã quen đối thoại với đảng Cộng sản từ năm 1975 để Cộng đoàn có thể tiếp tục thể hiện đức tin. Sau thời gian dài khó khăn đến năm 1989, nhiều linh mục đã có khả năng đàm phán và mang lại kết quả. Ví dụ năm 2008, hội Caritas của Giáo hội chuyên về các vấn đề xã hội, bị đóng cửa sau năm 1975, đã được mở cửa trở lại. Nhờ đó Giáo hội tham gia nhiều hơn vào hoạt động xã hội, như chăm sóc người mắc sida, người tàn tật, người nghiện hoặc trong suốt đại dịch Covid-19. Do đó, có thể thấy ba nhân tố chính giúp đạt được kết quả này : chính phủ Việt Nam, Vatican và Giáo hội Việt Nam.RFI : Việc bổ nhiệm một đại diện thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam có ý nghĩa như thế nào đối với Hà Nội, cũng như với Vatican ? Trần Thị Liên Claire : Đối với Việt Nam, đó là kết quả cho thấy rằng Việt Nam có thể tiến lên trong quan hệ ngoại giao, khác với trường hợp của Trung Quốc, hiện vẫn rất phức tạp. Thậm chí người ta nói rằng hồng y Parolin muốn dùng mô hình Việt Nam để thử cải thiện mối quan hệ giữa Vatican và Trung Quốc, ví dụ trong tiến trình bổ nhiệm giám mục. Trước đây ở Việt Nam cũng không dễ dàng gì nhưng theo tiến trình hiện nay, Vatican đề xuất 3 tên và chính phủ Việt Nam đưa ra ý kiến. Chỉ khi nào có đồng thuận thì giám mục mới được bổ nhiệm. Có thể thấy Bắc Kinh và Vatican không có khả năng đối thoại như vậy, bởi vì Trung Quốc có Hội Công giáo Yêu nước, được thành lập năm 1957, độc lập với Tòa Thánh.Đây cũng là điểm đặc biệt của Việt Nam, có nghĩa là chưa bao giờ có Giáo hội ly khai. Có lẽ là đảng Cộng sản Việt Nam cũng muốn nhưng không thành. Điểm khác biệt lớn so với Trung Quốc mang lại cho Việt Nam hình ảnh một đất nước cởi mở, có khả năng đàm phán với một Nhà nước tôn giáo, cũng như liên kết với Cộng đoàn, và cho thấy rằng chính phủ đối thoại với Vatican, đặc biệt là lời mời giáo hoàng tông du Việt Nam của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng hôm 14/12/2023. Đây cũng là cách để giáo dân đánh giá cao quyết định này. Lần tiên sẽ có một giáo hoàng đến thăm một nước Cộng sản châu Á. Đọc thêm : Việt Nam và Vatican đồng thuận mở văn phòng đại diện thường trực của Tòa Thánh tại Hà NộiRFI : Trong thư gửi đến Giáo hội Việt Nam tháng 09/2023, giáo hoàng Phanxicô kêu gọi các tín hữu sống đúng tinh thần của “tín hữu tốt và công dân tốt”, nói một cách khác là hài hòa với chính sách của Nhà nước. Đây có phải là chủ ý của giáo hoàng ?Trần Thị Liên Claire : Tôi nghĩ đó là một chiến lược có từ rất lâu của Vatican. Vào khoảng thế kỷ 18 và 19, một giáo hoàng cử các nhà truyền đạo luôn nhắc nhở rằng “các vị không phải là đại diện cho một nước, các vị đến đó để truyền đạo và các vị phải tuân thủ chính quyền sở tại”. Điều này không có gì là mới.Theo suy luận của tôi, lịch sử Công giáo Việt Nam cho thấy giáo dân bị coi là đồng minh với thực dân Pháp, sau đó là với Mỹ. Cho nên ngay năm 1975, cha Bình, tổng giám mục Sài Gòn lúc đó, nói là sẽ hợp lực tái thiết quốc gia sau cuộc chiến kéo dài. Giáo hội Việt Nam chiếm số ít, chỉ 7% và muốn cho thấy là tuân thủ chính quyền. Ở Pháp cũng vậy, Giáo hội và mọi tôn giáo khác đều phải tôn trọng nước Cộng Hòa. Cho nên tôi không ngạc nhiên về yêu cầu của Vatican.Điều giáo hoàng muốn truyền tải là giáo dân tham gia vào đời sống xã hội, đồng thời cũng muốn nói là Vatican không đưa ra thông điệp chính trị. Tôi nghĩ rằng đây cũng là cách giải thích của Vatican đến giáo dân Việt Nam rằng giáo dân chúng ta là công dân của một đất nước và Giáo hội không kêu gọi phản đối chính phủ này. Điều này không chỉ đúng với mỗi Việt Nam mà còn với nhiều nước khác, nơi có những thiểu số tôn giáo khác. Đó là cách giáo hoàng muốn trấn an chính phủ Việt Nam rằng Giáo hội là một lực lượng năng động góp phần vào hài hòa xã hội. RFI : Trong tương lai, Việt Nam và Vatican có thể tiếp tục thảo luận về những chủ đề nào ? Trần Thị Liên Claire : Giáo dục là một vấn đề rất nhạy cảm vì người Công giáo không được thành lập trường học. Cho đến năm 1975, ở miền nam Việt Nam có rất nhiều trường học do nhà thờ quản lý nhưng sau đó bị đóng hết. Một trong hai thách thức trong những năm tới, đó là có thể mở được trường học không, trước tiên là tiểu học, rồi trung học cơ sở. Năm 2016, chính phủ Việt Nam đã chấp nhận thành lập Học Viện Công giáo, nhưng đó không phải là trường đại học như ở Paris, nơi dạy tất cả các môn. Dù vẫn chưa thực sự phát triển mạnh nhưng cho thấy là ý tưởng đã được thực hiện. Chúng ta chờ xem. Còn hiện giờ, giáo dục vẫn là lĩnh vực độc quyền của đảng Cộng sản.Chủ đề thứ hai cần được thảo luận là tài sản của Giáo hội, tương tự vấn đề tài sản với những tôn giáo khác. Đây là chủ đề rất phức tạp và sẽ phải được giải quyết theo từng trường hợp, chứ không chung chung. Tôi lấy một ví dụ về việc tịch thu tài sản của nhà thờ. Cuộc Cách mạng Pháp cũng đã tịch thu rất nhiều tài sản của Giáo Hội trong vài chục năm. Rất nhiều tài sản chưa bao giờ được trả lại cho Giáo hội. Do đó vấn đề không chỉ giới hạn ở Việt Nam, mà ở Pháp cũng vậy. Một ví dụ khác là tất cả các nhà thờ ở Pháp thuộc sở hữu của nhà nước và nếu một nhà thờ bị hỏng, nhà nước phải trùng tu. Đọc thêm : Quan hệ Việt Nam - Vatican còn nhiều trở ngạiTheo tôi, Vatican thực dụng và sẽ không đòi lại hết. Vatican, Giáo hội Việt Nam và chính phủ Việt Nam có thể trao đổi về từng trường hợp để có những tiến bộ từng bước. Việc có một đại diện thường trú của Vatican chắc chắn sẽ hỗ trợ Giáo hội Việt Nam thảo luận với chính quyền. Chúng ta chờ xem diễn biến tiếp theo khi tổng giám mục Zalewski đến Hà Nội : Sự kiện đó sẽ thay đổi mối quan hệ song phương, cũng như cách giải quyết các vấn đề như thế nào ? Và đặc biệt là chuyến viếng thăm của giáo hoàng.RFI : Liệu chuyến thăm của giáo hoàng có thể sớm diễn ra ? Trần Thị Liên Claire : Tôi nghĩ là có thể. Cách đây không lâu tôi đến Roma theo lời mời phỏng vấn của đài phát thanh Radio Vatican. Giáo hoàng bị ốm, không chắc là sức khỏe của ngài cho phép ngài tông du Việt Nam ngay. Nhưng điều chắc chắn là Việt Nam đã mời. Đó là lời mời đầu tiên mà Vatican đề nghị từ rất lâu. Giáo hoàng đã đến nhiều nước châu Á, nhưng lại chưa đến Việt Nam, nước đông giáo dân nhất, dĩ nhiên là trừ trường hợp Philippines. Việt Nam có 7% dân theo Công giáo, Hàn Quốc là 11% nhưng dân số Việt Nam đông hơn. Trong mỗi chuyến tông du của giáo hoàng ở những nước có rất ít giáo dân như Thái Lan, Mông Cổ, Miến Điện, luôn có một phái đoàn Việt Nam tham dự.Ngoài ra, tôi muốn nhấn mạnh đến thông báo mời giáo hoàng, được đưa ra ngày 14/12, ngay sau khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rời Hà Nội. Tôi tin là chuyến thăm sẽ diễn ra. Nếu không phải là giáo hoàng Phanxicô thì sẽ là người kế nhiệm, nhất là từ giờ còn có một đại diện trường trú của Tòa Thánh ở Hà Nội. Chuyến tông du sẽ là một sự kiện rất quan trọng cho những giáo dân trông đợi từ rất lâu, cũng như cho đảng Cộng sản. Chuyến tông du sẽ mang lại lợi ích về mặt chính trị, cho thấy sự cởi mở của chính phủ vì chúng ta biết là hiện còn rất nhiều tồn đọng ở Việt Nam. Theo tôi, có thể là vào năm 2024, cùng lắm là 2025 nếu mọi chuyện tốt đẹp. Như tôi nói ở trên, Vatican muốn áp dụng mô hình Việt Nam cho mối quan hệ với Trung Quốc.RFI : Vậy chính phủ Việt Nam đánh dấu khác biệt với Trung Quốc trong cách xử lý vấn đề Công giáo và quan hệ với Vatican như thế nào ? Trần Thị Liên Claire : Tôi là nhà sử học nên tôi ngược dòng thời gian một chút để nhắc lại rằng trong văn hóa Nho giáo và trước thời kỳ thực dân, nước Đại Việt có Bộ Lễ quản lý vấn đề tôn giáo. Như vậy trong truyền thống xa xưa, chính quyền cũng quản lý các tôn giáo và điều này hoàn toàn phù hợp với Nho giáo. Tương tự tại Pháp, cũng có bộ Nội Vụ kiểm soát xem các tôn giáo hoạt động có phù hợp với nền Cộng hòa không. Điểm khác nhau, như tôi nói ở trên, là chỉ có 1% dân Trung Quốc theo Công giáo, còn Việt Nam là 7% và họ rất năng động.Đối với Việt Nam, lịch sử cho thấy rằng vấn đề Thiên Chúa giáo quan trọng hơn. Để chống quân Hán, rồi Pháp và Mỹ, Việt Nam luôn thúc đẩy đoàn kết dân tộc và đoàn kết dân tộc chính là tất cả mọi người, kể cả giáo dân. Trung Quốc không cần điều này. Tôi cho rằng Việt Nam khác hẳn với Trung Quốc về điểm này. Điểm khác biệt thứ hai là Trung Quốc có Giáo hội Yêu nước từ năm 1957, không có liên hệ chính chức với Vatican. Còn Việt Nam, dù trải qua một giai đoạn khó khăn từ năm 1975 đến 1989, nhưng chưa bao giờ cắt đứt quan hệ với Vatican. Và điểm này làm thay đổi rất nhiều trong đối thoại.Điểm thứ ba là Nhà nước do đảng Cộng sản lãnh đạo kiểm soát mọi hoạt động tôn giáo ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. Nhưng như đề cập ở trên, truyền thống đoàn kết dân tộc ở Việt Nam cho rằng người theo đạo cũng có một vị trí, tích cực tham gia các hoạt động xã hội... Một điểm khác biệt nữa, đó là từ năm 1989, Việt Nam cho phép chủng sinh, linh mục ra nước ngoài học tập, như ở Roma, Pháp, Philippines, Hoa Kỳ. Họ được đào tạo bài bản, kết nối hơn với thế giới và theo những chương trình đào tạo trình độ cao về thần học và còn giảng đạo tại giáo xứ ở nhiều nước khác. Trung Quốc thì ngược lại. Chủng sinh, linh mục không được phép tu nghiệp ở nước ngoài, phải ở lại Trung Quốc và khá bị hạn chế về trình độ. Đó chính là sự khác biệt về tinh hoa tôn giáo.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn bà Trần Thị Liên Claire, giảng viên Đại học Paris Cité.
2/5/2024 • 15 minutes, 50 seconds
Biển Đông: Việt Nam dè dặt với các sáng kiến của Philippines
Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. ngày 29/01/2024 bắt đầu chuyến viếng thăm cấp Nhà nước Việt Nam đến ngày 30/01. Riêng về vấn đề Biển Đông, nhân chuyến đi này, Marcos Jr. có lẽ sẽ cố thuyết phục Việt Nam ủng hộ đề xuất của ông về một bộ quy tắc ứng xử riêng giữa Philippines với Việt Nam và Malaysia. Nhưng nói chung Hà Nội vẫn dè dặt với những sáng kiến của Manila về vùng biển tranh chấp với Trung Quốc. Ngay trước khi kết thúc chức chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN năm 2023, Indonesia đã huy động các ngoại trưởng của khối này đưa ra tuyên bố riêng về Biển Đông ngày 30/12 trong bối cảnh căng thẳng leo thang, đặc biệt là giữa Philippines và Trung Quốc. Bày tỏ “mối quan ngại”, tuyên bố của các ngoại trưởng ASEAN kêu gọi các quốc gia tranh chấp ở Biển Đông “ tự kiềm chế” và “tránh những hành động có thể làm phức tạp thêm tình hình”. Đặc biệt ASEAN đã đề cập đến “khu vực hàng hải của chúng ta” và tái khẳng định “sự thống nhất và đoàn kết” giữa các thành viên, trong đó có Philippines, một quốc gia sáng lập ASEAN đã có nhiều xung đột với Trung Quốc xung quanh khu vực Bãi Cỏ Mây ( Second Thomas Shoal ) trong vài tháng qua.Tuy nhiên, ASEAN đã không chỉ trích đích danh Trung Quốc, một đối tác thương mại lớn của khối và cũng không đưa ra bất kỳ trợ giúp cụ thể nào cho Philippines, ngoài việc nhắc lại cam kết về các cuộc đàm phán dường như không bao giờ kết thúc với Trung Quốc về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC. Một số nhà lãnh đạo ASEAN còn gián tiếp chỉ trích lập trường cứng rắn hơn của Philippines trong vùng biển tranh chấp với Trung Quốc. Vì thấy không thể trông chờ vào sự hỗ trợ của ASEAN, Philippines dường như đang muốn dựa vào liên minh chiến lược với các nước láng giềng có cùng chí hướng, đặc biệt là Việt Nam.Vào ngày 20/11/2023, ông Marcos Jr. tuyên bố Philippines đã tiếp cận các nước láng giềng như Việt Nam và Malaysia để xây dựng một “Bộ quy tắc ứng xử” (COC) ở Biển Đông riêng giữa ba nước, trong khi chờ bộ quy tắc ứng xử giữa ASEAN với Trung Quốc mà tiến trình đàm phán vẫn diễn ra quá chậm. Đây không phải là lần đầu tiên tổng thống Marcos Jr. kêu gọi thúc đẩy các cuộc đàm phán COC riêng với các nước láng giềng của Philippines, vì ông muốn tận dụng ảnh hưởng tập thể để phản đối các điều khoản có lợi cho Trung Quốc trong bộ quy tắc ứng xử đang đàm phán với ASEAN. Đồng thời thông qua việc đe dọa đưa ra một COC riêng, tổng thống Philippines cố gây áp lực buộc Trung Quốc phải nhượng bộ trong hồ sơ này.Trả lời RFI Việt ngữ ngày 17/01/2024, nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt nhận định về sáng kiến của tổng thống Marcos Jr.:“Philippines là một quốc gia nổi tiếng xưa nay có rất nhiều sáng kiến. Ngay cả sáng kiến đầu tiên về bộ quy tắc ứng xử COC từ những năm 1990 là bắt đầu từ phía Philippines. Chính vì vậy Philippines đã rất năng nổ trong việc tìm kiếm một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Nhưng Philippines là một nền dân chủ, một tổng thống chỉ nắm quyền một nhiệm kỳ tối đa là 6 năm và chính sách có thể thay đổi rất nhiều, cho nên lập trường của Philippines về vấn đề này luôn luôn thay đổi. Dưới thời tổng thống Aquino III, Philippines đã khởi kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Thường trực. Nhưng đến 2016, khi Duterte trở thành tổng thống thì Manila lại xoay trục về phía Trung Quốc, hoàn toàn muốn thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Đến thời tổng thống Marcos Jr. thì lại có thay đổi.Có lẽ đây là một sáng kiến tốt của Philippines? nhưng thành công của nó thì chúng ta còn phải cân nhắc và chờ xem. Chưa kể là từ 2012, các nước ASEAN đã thống nhất với nhau một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, gọi là bản dự thảo bộ quy tắc ứng xử số 0, do Indonesia khởi thảo. Tức là trước đó, do sự rất chậm trễ của tiến trình đàm phán về bộ quy tắc ứng xử, đã có những ý kiến rằng nên chăng các nước ASEAN tự mình đưa ra một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, rồi sau đó mới đưa Trung Quốc vào? Toàn bộ các nước ASEAN đã đồng ý với bản dự thảo của Indonesia. Sau đó, ASEAN đã mời Trung Quốc tham gia, nhưng Trung Quốc từ chối. Bản dự thảo bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông đó đã bị vứt vào sọt rác. ASEAN và Trung Quốc phải làm lại từ đầu trong tiến trình đàm phán về bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông, tại vì trong bộ quy tắc ứng xử này, Trung Quốc là bên tham gia cực kỳ quan trọng, bởi Trung Quốc hiện là cường quốc lớn nhất khu vực, cả về kinh tế và về quân sự. Nếu không có sự đồng ý của Trung Quốc thì rất khó. Mười quốc gia ASEAN đã đồng ý một bản dự thảo bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông thế mà vẫn chưa thể buộc Trung Quốc tham gia, thì liệu 3 quốc gia như Việt Nam, Malaysia, Philippines có thể khiến Trung Quốc chấp nhận ngồi vào bàn để đàm phán các điều khoản đó hay không? Tôi nghĩ là không chỉ Việt Nam, mà cả Malaysia đều phải cân nhắc kỹ vấn đề này.” Ngay sau tuyên bố của tổng thống Marcos Jr. về việc soạn thảo một bộ quy tắc ứng xử riêng, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh đã cảnh báo rằng “bất kỳ hành động nào rời xa khuôn khổ và tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC đều sẽ vô hiệu”. Tuyên bố này không chỉ cho thấy Trung Quốc chống lại đề xuất của Marcos Jr., mà còn thể hiện quyết tâm của Bắc Kinh ngăn chặn Philippines gây rối loạn tiến trình đàm phán COC giữa ASEAN với Trung Quốc. Ngoài việc thuyết phục hai nước ủng hộ bộ quy tắc ứng xử riêng, Philippines còn đặt mục tiêu lôi kéo Việt Nam và Malaysia vào cuộc chiến chống lại Trung Quốc ở Biển Đông để củng cố vị thế thương lượng của mình. Thông qua hợp tác với các bên tranh chấp khác, Philippines cũng có ý định ngăn chặn Trung Quốc có những hành động gây hấn ở Biển Đông. Nhưng trong một bài viết đăng trên trang EastAsiaForum ( Diễn đàn Đông Á ) ngày 02/01/2024, ông Nian Peng, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á Hồng Kông (RCAS), Hồng Kông, cho rằng Việt Nam và Malaysia khó có thể làm theo đề xuất của Marcos về việc xây dựng một COC riêng. Theo nhà nghiên cứu này, khác với Philippines, Việt Nam không có ý định khiêu khích Trung Quốc ở Biển Đông. Thay vào đó, Hà Nội chủ trương dùng biện pháp ngoại giao để quản lý một cách thận trọng các tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc mà không gây tổn hại quan hệ song phương. Việt Nam khó có thể tham gia phe chống Trung Quốc của Philippines.Đây phần nào cũng là ý kiến của nhà nghiên cứu Hoàng Việt: “Về mặt lý thuyết, rõ ràng Việt Nam luôn ủng hộ những sáng kiến nào khiến cho bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông sớm được ra đời và có hiệu lực, mà phải có tính pháp lý cao và phải dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Nhưng trên thực tế thì Việt Nam rất dè dặt với sáng kiến này của Philippines, bởi vì, như đã trao đổi ở trên, Philippines rất năng động đưa ra các sáng kiến, nhưng họ lại làm không chắc chắn, cho nên nhiều lúc Việt Nam lo rằng Philippines có những hoạt động mang tính “phiêu lưu” và điều này thì hoàn toàn Việt Nam không muốn, đặc biệt trong bối cảnh mà Việt Nam mới đưa mối quan hệ với Trung Quốc lên tầm cao hơn, sau chuyến đi của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang Việt Nam vào tháng 12 năm ngoái.Nói cho cùng Việt Nam rất muốn ủng hộ Philippines hoặc là muốn Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông sớm ra đời, nhưng Việt Nam lo ngại, một là sự phiêu lưu trong các quyết định của Philippines, hai là sự chia rẽ vẫn còn rất lớn trong nội bộ ASEAN, ba là sức mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc vẫn muốn sử dụng ASEAN và sử dụng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông như là một công cụ để loại các quốc gia khác như Hoa Kỳ khỏi việc đàm phán này. Philippines là một đồng minh của Mỹ, nên dựa hẵn vào Mỹ, luôn viện dẫn Hiệp định hổ tương quân sự ký với Mỹ 1951. Trong khi đó, Việt Nam chọn cách khác, đó là dựa vào sức mình. Trong lúc Việt Nam đang "đu dây", gọi một cách chính thống hơn là "cân bằng quan hệ" với Mỹ và với Trung Quốc. Đương nhiên Việt Nam "cân bằng" không có nghĩa là sẽ nhượng bộ Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, một trong những vấn đề gay góc nhất trong mối quan hệ. Nhưng Việt Nam hiểu rằng tranh chấp Biển Đông sẽ kéo rất dài và trước mắt Việt Nam phải làm sao duy trì được môi trường hòa bình để tránh xung đột quân sự và để Việt Nam có không gian để phát triển được. Tức là phải vừa giữ được chủ quyền biển đảo của đất nước, nhưng phải duy trì được sự phát triển kinh tế và từ phát triển kinh tế mới tăng cường được sức mạnh quốc phòng của mình. Bản thân nhiều học giả Philippines bạn của tôi cũng đặt vấn đề là liệu Mỹ có thực tâm giúp Philippines hay không? Nghi ngại của họ không phải là không có lý: Vào năm 2012, Trung Quốc đã chiếm đoạt bãi cạn Scaborough của Philippines mà phía Mỹ chỉ đưa ra vài lời phản đối thôi, không đủ để khiến Trung Quốc dừng tay.”Còn Malaysia từ lâu đã duy trì cách tiếp cận không đối đầu trong các tranh chấp ở Biển Đông. Bất chấp căng thẳng ở Biển Đông, chính phủ Malaysia luôn nhấn mạnh đến giải pháp ngoại giao. Kể từ khi thủ tướng Anwar Ibrahim nhậm chức vào tháng 11/2022, quan hệ giữa Malaysia với Trung Quốc thậm chí còn chặt chẽ hơn. Ưu tiên hàng đầu của chính quyền Anwar là tăng trưởng kinh tế thay vì gây bất ổn ở Biển Đông. Indonesia cũng đã có những sáng kiến để quy tụ một số nước ASEAN đối đầu với Trung Quốc, nhưng vẫn không có kết quả mong muốn, như ghi nhận của nhà nghiên cứu Hoàng Việt: "Bốn quốc gia mà Trung Quốc luôn cho tàu xâm phạm liên tục vào vùng đặc quyền kinh tế là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia. Năm trước, Indonesia đã có sáng kiến là thành lập liên minh cảnh sát biển giữa 4 quốc gia này hoặc cùng với các nước ASEAN. Nhưng cho tới nay, các bước tiến hành khá là chậm chạp.Indonesia cũng đã có sáng kiến là tổ chức các cuộc tập trận chung của các nước ASEAN. Năm vừa qua cũng đã có thực hiện nhưng không có nhiều nước tham gia, trong đó có Philippines."Dầu sao, vì là hai nước đều có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông và thường xuyên bị Trung Quốc sách nhiễu, uy hiếp ở vùng biển này, Việt Nam và Philippines buộc phải tăng cường hợp tác chiến lược để đối đầu với địch thủ chung. Cụ thể, theo báo chí Philippines, nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của tổng thống Marcos Jr., Manila và Hà Nội sẽ ký kết Bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác giữa lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Tuần duyên Philippines. Về kinh tế, tổng thống Marcos Jr. hy vọng trong chuyến đi lần này Manila sẽ ký được với Hà Nội một hiệp định mua gạo của Việt Nam để bảo đảm an ninh lương thực cho Philippines.
1/29/2024 • 9 minutes, 19 seconds
Hồi sinh một biệt thự Pháp : Mô hình bảo tồn công trình cổ ở Hà Nội
Nằm ở khu đất vàng Hà Nội và bị bỏ hoang từ nhiều năm, căn biệt thự Pháp cổ ở số 49 Trần Hưng Đạo - 46 Hàng Bài, dự kiến đón khách tham quan dịp Tết Nguyên đán sau hơn một năm trùng tu. Thêm một địa điểm ở Hà Nội để công chúng có thể tìm hiểu sự giao thoa văn hóa, kiến trúc và lối sống tại khu phố Pháp đầu thế kỷ XX. Đây cũng là kết quả hợp tác giữa UBND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội và đơn vị cố vấn là vùng Ile-de-France và Cơ quan hỗ trợ Hợp tác Quốc tế vùng Ile-de-France tại Việt Nam (PRX).Biệt thự có hai lối vào, nhưng lối chính nằm ở 49 Trần Hưng Đạo, theo giải thích của ông Emmanuel Cerise, giám đốc PRX, hỗ trợ chuyên môn cho dự án :“Khi chúng tôi bắt đầu trùng tu ngôi nhà, gian phòng chính ở tầng trệt nhìn ra phố Hàng Bài đã được mở thêm một cửa kính lớn để làm cửa hàng. Nhìn như vậy, ta có cảm giác là lối vào chính nằm ở phố Hàng Bài. Nhưng nhìn vào bố cục và lịch sử của ngôi nhà thì lại khác.Vì đây là một tư dinh nên không có nhiều tài liệu lưu trữ, khác với các công trình công được xây dựng lúc đó. Tuy nhiên, người ta có thể thấy ngôi nhà này xuất hiện trên rất nhiều bản đồ quy hoạch đô thị hoặc quân sự của thành phố Hà Nội. Ví dụ ngôi nhà này không có trên một bản đồ năm 1893, nhưng xuất hiện trên một bản đồ năm 1895, 1898. Như vậy có thể áng chừng thời gian xây dựng biệt thự này trùng thời điểm mở đại lộ Gambetta (phố Trần Hưng Đạo hiện nay), nằm trong số bốn trục lộ lớn của khu phố Pháp. Đây là phố cuối cùng ở phía nam Hà Nội.Biệt thự được xây xong cùng lúc đại lộ Gambetta hoàn tất. Lúc đó, phố Hàng Bài (hiện giờ rộng như phố Trần Hưng Đạo) chỉ là một đường mòn để ra khỏi thành phố. Cho nên có thể hình dung rằng lối vào chính là từ phố Trần Hưng Đạo, lúc đó là đại lộ mới mở. Phía Hàng Bài có lẽ là một khu vườn rất rộng, gấp đôi diện tích vườn hiện nay và là khu riêng tư của biệt thự. Căn cứ vào bố cục biệt thự, từ phía Trần Hưng Đạo, chúng ta bước vào một gian dẫn đến phòng khách, phòng ăn, khu vực cầu thang lên tầng. Bố cục này hoàn toàn phù hợp với “lối vào” theo kiểu Pháp”.Kiến trúc Pháp thích ứng với điều kiện tự nhiên Việt NamKhu sân nhỏ dẫn đến bậc tam cấp lên nhà. Ngay bên trái cầu thang là tấm kính che một phần nền cũ của ngôi nhà, thấp hơn nền sân hiện tại, được phát hiện trong quá trình trùng tu.“Khi đào móng làm lại cầu thang đã bị phá, chúng tôi phát hiện ra nền móng cũ của biệt thự, thấp hơn 45 cm so với nền hiện nay. Phần hiên được lát gạch, tiếp theo là rãnh nước cách tường nhà khoảng 1 mét, tất cả chạy vòng quanh ngôi nhà để nước không trôi vào làm hỏng nhà. Rãnh này cũng làm ranh giới giữa phần hiên gạch và vườn ở phía bên kia. Chúng tôi giữ lại một phần hiên và rãnh gần lối vào chính và lắp kính ở trên, bởi vì khu vực mở này còn cho phép thấy được “khu bán hầm vệ sinh”. Thực ra đây là phần trống nhằm tách nền nhà khỏi mặt đất để tránh hơi ẩm, vì chúng ta biết là ở Việt Nam mưa nhiều, Hà Nội nằm ở đồng bằng nên các mạch nước ngầm rất gần. Nhờ cách làm này, ngôi nhà đã gần 130 tuổi vẫn là một công trình còn khá sạch vì không bị ẩm.Đó là những chi tiết nhỏ mà chúng tôi muốn giữ lại để cho thấy những phần không còn. Ngôi nhà có hai hệ thống chống ẩm hiệu quả : rãnh thoát nước để tránh tù đọng và tầng bán hầm vệ sinh làm vùng đệm giữa tường, nền nhà và mặt đất. Xây nhà trên tầng bán hầm như này thường tốn kém hơn, nhưng rất hiệu quả để chống ẩm. Thường thì trong những ngôi nhà không được xây theo hệ thống này, ẩm mốc sẽ lan khắp nhà”.Sau cánh cửa chính là gian phòng dẫn đến nhiều phòng khác và khu cầu thang, được ông Emmanuel Cerise nói ở trên. Trần nhà trơ khung thép, tường cầu thang cũng không được trát. Nhưng đây là chủ ý trong dự án nhằm “giải thích một số kỹ thuật Pháp được thích ứng ở Việt Nam”.“Trần ở đây được làm từ các cột thép, gọi là xà dọc, thêm một lớp rầm, sau đó là sàn của tầng trên. Đây không phải là kỹ thuật truyền thống Việt Nam. Ở Pháp, trần nhà thường được trát thạch cao. Nhưng ở nhà này không có, vì quá ẩm. Có thể vào đầu thời Pháp, người ta cũng dùng thạch cao, nhưng không được lâu vì không chịu được không khí quá ẩm ở Việt Nam, nên họ sử dụng hỗn hợp vôi rơm. Chúng tôi thấy chúng dính trên kèo nhà và trên đinh. Đó là kỹ thuật truyền thống được sử dụng ở những nước nóng ẩm châu Á. Chúng tôi áp dụng kỹ thuật đó trong những căn phòng khác, trừ gian này để cho thấy khung trần nhà ban đầu. Mái ở tầng trên cũng được để như vậy.Ở khu vực cầu thang lên tầng, chúng tôi cũng không trát một số chỗ, để lộ gạch gốc trên tường. Mục đích là nhằm giải thích một chút về kiểu kỹ thuật khá đặc biệt này ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX”.Tương tự trên nền nhà, một vài viên gạch bị thiếu vẫn để trống.“Nền nhà tầng trệt (tầng 1) vẫn giữ được gạch lát gốc hình lục lăng. Chúng tôi đã cậy 1, 2 viên để xem và thấy tên một công ty ở tỉnh Var (miền nam Pháp), giờ không còn, được in trên đó. Những viên gạch này mang đặc trưng của tỉnh Var. Chúng tôi không rõ ngói ở biệt thự này có điểm đặc biệt gì, không nhưng ở nhiều ngôi nhà khác ở Việt Nam, rất nhiều ngói cũ được in tên từ Marseille (miền nam Pháp) bởi vì đó cũng là một hải cảng, nơi xuất phát mọi hàng hóa. Cho nên gạch lát đến từ Var và ngói đến từ Marseille là chuyện bình thường”.Đi hết cầu thang xoắn ốc, được làm lại hoàn toàn bằng thép và gỗ vì cầu thang cũ không còn, là đến tầng hai, chủ yếu gồm các phòng ngủ, phòng làm việc, đầy ánh sáng từ cửa sổ được lắp khắp nơi.“Khung kèo mái được làm bằng kim loại. Khi được giao trùng tu, biệt thự chỉ còn khung kèo, không còn lợp. Khung kèo mái được làm theo đúng kỹ thuật truyền thống cuối thế kỷ XIX ở Pháp, có nghĩa là làm bằng thép. Xây dựng bằng kim loại phát triển rất mạnh tại Pháp vào thời kỳ đó, như chúng ta thấy tháp Eiffel, rất nhiều cây cầu bằng thép. Vì thế, thép được sản xuất rất nhiều. Nhưng ở Việt Nam lại không có, vì chính quyền thuộc địa không phát triển ngành luyện kim tại đây, cho nên họ đã nhập xà thép từ Pháp để làm khung kèo, lắp thêm xà gồ để giữ ngói. Ngói cũng không có ở Việt Nam. Thực ra là không rõ lắm ! Nhưng chắc chắn là chúng tôi không tìm thấy ngói trong những ngôi nhà khác nên những viên ngói đầu tiên cũng được nhập từ Pháp”.Nguyên nét đặc trưng biệt thự Pháp cổCác gian trong biệt thự được phân bổ theo đúng kiến trúc Pháp thời đó. Lối vào, phòng khách, phòng ăn nằm ở tầng 1, trên tầng là các phòng ngủ, một nhà tắm, một nhà vệ sinh. Nhưng điều ngạc nhiên, được kiến trúc sư Emmanuel Cerise nhắc đến, là trong nhà không có vết tích của bếp.“Thực ra, vào thời đó, các biệt thự Pháp đều có một nhà phụ nơi những người giúp việc (được gọi là “boys”) là người Việt sinh sống và cũng làm nhà bếp. Khi đào sâu thêm dưới đất, chúng tôi thấy móng của một nhà phụ đó nhưng bị phá hoàn toàn nên không thể biết thêm được gì.Vì vậy, chúng tôi quyết định xây thêm một khu phụ, trong đó có nhà vệ sinh để không phải xây thêm nhà vệ sinh trong biệt thự chính, có nghĩa là sẽ không phải đấu nước và sẽ tránh được nguy cơ rò rỉ nước mà chúng ta vẫn biết hệ thống nước thải hiện vẫn khá phức tạp ở Việt Nam. Ngoài ra, trong ngôi nhà phụ đó còn có một gian lớn mà chúng tôi muốn mở một hàng cà phê để khách tham quan có thể lên trần, nhâm nhi cà phê ngắm biệt thự từ trên cao”.Gạch, ngói thay thế được sản xuất tại Việt Nam. Biệt thực được quét vôi màu vàng và đỏ đậm. Khi mới quét xong, mầu vôi mới bị chê là “chưa thuận mắt” nhiều người. Ông Emmanuel Cerise giải thích cách tìm ra màu gốc.“Vì biệt thự bị bỏ hoang từ lâu và được sơn đi sơn lại nhiều lần. Chúng tôi cạo hết các lớp trát sau này và phát hiện ra lớp sơn cũ. Ở Pháp rất dễ làm lại được loại sơn cũ, chỉ cần gửi mẫu tới một phòng thí nghiệm để phân tích thành phần hóa học màu gốc, cũng như vật liệu gốc đã được sử dụng. Khi bắt đầu cải tạo ngôi nhà này, chúng tôi cũng lấy mẫu. Tôi đề xuất gửi sang Pháp phân tích, vì ở Việt Nam hiện chưa có cơ quan nào có thể phân tích kiểu này, nhưng phía đối tác Việt Nam cho rằng không thực sự cần thiết. Đó có thể là một trong những hạn chế, tương tự với gạch lát, lẽ ra cũng nên nhập từ Pháp. Nhưng có lẽ hơi phức tạp cho phía Việt Nam”.Công trình thí điểm cho gần 100 biệt thự cổ ở Hà NộiBiệt thự số 49 Trần Hưng Đạo - 46 Hàng Bài là công trình biệt thự đầy tiên của Hà Nội được làm một cách bài bản và có kinh phí lên gần 15 tỷ đồng.“Tại sao lại chọn biệt thự này ? Vì người ta nghĩ là ngôi nhà bị ma ám. Tôi không biết hết chuyện, nhưng hình như là ai đó đã chết thảm thương trong nhà. Người Việt khá mê tín nên không muốn sống trong ngôi nhà bị ma ám. Dù ngôi nhà nằm giữa trung tâm thành phố, được coi là khu đất vàng, nhưng chẳng ai quan tâm đầu tư vào ngôi nhà.Trước đó, trong khu đất của biệt thự này có 25 hộ gia đình sinh sống, nhưng không ai sống trong ngôi nhà rộng 100 m2, cao hai tầng, có nghĩa là khoảng 200 m2, trên toàn bộ diện tích đất 900 m2. Ngôi nhà bị bỏ hoang, còn người dân sống trong những căn nhà tạm trong vườn. Quá trình bồi thường, tái định cư cũng kéo dài. Phía đối tác Việt Nam của chúng tôi tốn rất nhiều thời gian để giải tỏa khu đất”.Là dự án thí điểm để trùng tu khoảng 100 biệt thự Pháp trong kế hoạch của thành phố Hà Nội, biệt thự 49 Trần Hưng Đạo sẽ trở thành Trung tâm Thông tin Phố cũ (theo mô hình Centre d’interprétation du Patrimoine - Trung tâm giải thích di sản của Pháp) nhằm giới thiệu : Cuộc sống của một gia đình Pháp vào thời kỳ đó ra sao ? Sự giao thoa văn hóa Pháp-Việt diễn ra như nào ?
1/22/2024 • 10 minutes, 30 seconds
Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam
Năm 2023, Việt Nam và Pháp đánh dấu kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược. Pháp là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ hai của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam trong rất nhiều lĩnh vực từ khoa học công nghệ đến văn hóa. Về quốc phòng, hai nước đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2018-2028 và Hiệp định khung về hợp tác quốc phòng. Tuy nhiên, hợp tác quốc phòng giữa hai nước hiện chỉ dừng ở “phần mềm”. Hoạt động song phương gần đây nhất là Đối thoại hợp tác và chiến lược quốc phòng Việt - Pháp lần thứ ba tại Paris ngày 18/12/2023. Theo trang Vietnam News ngày 20/12, hai bên nhất trí trong thời gian tới, “tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng thiết thực, hiệu quả […] nghiên cứu ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác, huấn luyện, tăng cường hợp tác quân y, hợp tác về an ninh biển, an ninh mạng, chống khủng bố và khắc phục hậu quả sau chiến tranh”.Dù Việt Nam đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, Pháp vẫn không thể “chen chân” với các đối tác khác của Hà Nội. Lý do tại sao ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.RFI : Một số nhà sản xuất vũ khí, trang thiết bị quốc phòng Pháp tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022 và cho biết sẵn sàng hợp tác với các đối tác Việt Nam. Hiện giờ Pháp hợp tác với Việt Nam trong những mảng nào ?Nguyễn Thế Phương : Hiện nay, quan hệ quốc phòng Việt-Pháp có nhiều mảng khác nhau, có cả mua bán vũ khí, nhưng phần lớn liên quan đến những lĩnh vực hợp tác mang yếu tố ngoại giao quốc phòng. Ví dụ Pháp hỗ trợ Việt Nam mảng gìn giữ hòa bình. Pháp đào tạo cho các sĩ quan Việt Nam một số mảng như quân y, tình báo, công nghiệp quốc phòng. Hai bên phối hợp tăng cường thấu hiểu lẫn nhau, như trao đổi quan điểm trong các tổ chức đa phương.Mối hợp tác như vậy nổi trội hơn hẳn so với “phần cứng”, ví dụ mua bán vũ khí. Hiện nay, chỉ có Airbus là có hợp tác quốc phòng “sâu rộng” với Việt Nam. Nhưng phải nói Airbus không phải là của Pháp mà là của châu Âu. Mua bán ở đây chủ yếu là máy bay trực thăng. Việt Nam hiện có tầm 12-15 máy bay trực thăng mua từ Airbus. Mối quan hệ giữa quân đội Việt Nam với Airbus cũng tương đối ổn khi mà danh mục mua sắm vũ khí của Việt Nam đang quan tâm tới rất nhiều loại máy bay. Mục đích chủ yếu hiện nay mới là tìm hiểu và xem sắp tới Việt Nam có thể hợp tác nhiều hơn với Pháp hay không, đặc biệt là thông qua Airbus.Ngoài lĩnh vực hàng không còn phải nói đến lĩnh vực vũ trụ khi mà Pháp hỗ trợ Việt Nam trong vấn đề chế tạo một số loại vệ tinh nhỏ, ví dụ VNREDSat. Đó là một loại vệ tinh mà Việt Nam và Airbus hợp tác với nhau liên quan tới hàng không vũ trụ. Còn những vấn đề mua bán vũ khí không được nổi trội lắm.Hiện tại, hợp tác quốc phòng Việt-Pháp không nổi bật lắm khi so với hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước khác, ví dụ với Israel hay với Ấn Độ.RFI : Vũ khí, khí tài của Pháp - một trong những cường quốc quân sự hàng đầu thế giới - vắng bóng trong kho của Việt Nam. Đâu là lý do giải thích cho hiện tượng này ?Nguyễn Thế Phương : Có khá nhiều lý do. Hợp tác quốc phòng Việt-Pháp thực ra đã được khởi động từ những năm 1990 khi Việt Nam bắt đầu bình thường hóa với các nước phương Tây, cũng như tìm cách hội nhập với thế giới. Một trong những nước đầu tiên mà Việt Nam tiếp cận liên quan đến vấn đề hiện đại hóa, chính là Pháp. Điển hình là hợp đồng Việt Nam muốn mua khoảng 12 máy bay Mirage-2000 của Pháp trong những năm 1995-1996. Hợp đồng đó bị đổ bể bởi vì trong giai đoạn đó Việt Nam vẫn bị cấm vận vũ khí. Mỹ là nước ngăn cản thương vụ đó.Từ giai đoạn đó cho tới gần đây, rõ ràng là vũ khí Pháp, đặc biệt là các vũ khí mang tính “nóng”, tức là đánh nhau được và các vũ khí phức tạp, hoàn toàn không thể chen chân vào thị trường vũ khí Việt Nam được.Thứ nhất là do vấn đề chính trị, cấm vận vũ khí tới tận 2016 Mỹ mới dỡ bỏ. Thứ hai là vấn đề tích hợp. Điểm này cũng giống với tất cả các loại vũ khí phương Tây khác khi mà Việt Nam đã sử dụng vũ khí hệ Nga-Liên Xô quá lâu. Có nghĩa là toàn bộ chi phí vận hành, bảo dưỡng, huấn luyện, mua sắm liên quan đến hệ vũ khí Nga-Liên Xô nên khi chuyển đổi một hệ vũ khí khác thì sẽ rất tốn kém. Nhưng đó chỉ là một phần. Điểm tiếp theo là giá của vũ khí, đặc biệt là các loại như máy bay, tầu chiến, có nghĩa là các loại vũ khí lớn của Pháp quá mắc. Điều này dẫn tới Việt Nam khá e ngại mua các loại vũ khí của Pháp nói riêng. Vì ngoài Airbus, Pháp còn có nhiều nhà thầu lớn như Dassault, nhưng những loại vũ khí đó so với nhu cầu của Việt Nam hiện tại thì giá thành mắc. Cho nên Việt Nam phải có những lựa chọn khác, rẻ hơn nhưng phù hợp với chi phí vận hành, bảo dưỡng, huấn luyện mà Việt Nam hiện có. Đó cũng là một trong những ba lý do chính.Ngoài ra còn có những lý do đằng sau, ví dụ liên quan đến tham nhũng. Ví dụ hợp đồng Việt Nam mua ba máy bay vận tải tầm trung của Airbus. Mặc dù không liên quan đến Pháp lắm nhưng có vấn đề liên quan đến cách hai bên mua sắm vũ khí. Quá trình mua sắm vũ khí gặp phải một số bất trắc dẫn tới là hai bên nhiều khi không tìm được tiếng nói chung để có thể đi tới hoàn tất hợp đồng đó. Tham nhũng là một phần. Đây là một yếu tố phụ.Do đó, vũ khí Pháp, cho tới thời điểm hiện tại, hầu như vắng bóng trong toàn bộ quá trình thảo luận liên quan đến hiện đại hóa, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.RFI : Chúng ta thấy Pháp bán vũ khí cho Indonesia, Malaysia. Ngoài những lý do như vừa nêu về giá, khả năng tích hợp, cấm vận cho đến năm 2016, liệu còn có trở ngại nào khác không, ví dụ vấn đề địa-chính trị, điểm nóng Biển Đông có liên quan đến Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Vấn đề ở đây không phải là từ phía Pháp mà là nhu cầu, cũng như sự lựa chọn của Việt Nam như thế nào. Vấn đề chính từ phía Việt Nam cũng không hẳn là vấn đề lo ngại Trung Quốc hay điều gì khác. Bởi vì nếu lo ngại với Trung Quốc thì Việt Nam đã không hợp tác sâu hơn với Mỹ về vấn đề quốc phòng. Tức là Việt Nam đã hợp tác với Mỹ rồi thì không có cớ gì mà không hợp tác với Pháp được cả. Phải nhấn mạnh như vậy !Cái chính vẫn là liên quan tới vấn đề giá cả, cũng như lợi ích của loại vũ khí. Bởi vì hiện nay, so với các loại vũ khí Pháp, đặc biệt là những loại vũ khí lớn như máy bay chiến đấu, tầu chiến, thì lựa chọn thay thế của Việt Nam rất là nhiều. Mặc cho cuộc chiến của Nga ở Ukraina, quan hệ hợp tác quốc phòng Việt-Nga hiện nay vẫn tốt. Ngoài ra còn có rất nhiều quốc gia khác có thể cung cấp vũ khí tương tự với giá rẻ hơn, ví dụ trong tương lai là Hàn Quốc hoặc các quốc gia Đông Âu như CH Séc và đặc biệt là Mỹ, khi mà quan hệ Việt-Mỹ giờ đã lên mức “đối tác chiến lược toàn diện” thì khả năng trong tương lai ngắn, tầm 5 năm nữa, Mỹ chuyển giao cho Việt Nam một số loại vũ khí “bự”, chẳng hạn máy bay, có tin đồn Mỹ có thể cung cấp F-16 cho Việt Nam.Điều này dẫn tới khả năng cạnh tranh của các loại vũ khí Pháp nói riêng và Tây Âu nói chung ở thị trường Việt Nam hiện nay tương đối là yếu và khả năng có được một hợp đồng lớn nào đó giữa Việt Nam và Pháp hiện nay khá là thấp.Ngoài những vũ khí mà Tây Âu có thế mạnh, như trực thăng, cũng như những loại máy bay vận tải tầm trung, thì còn có khả năng nhưng thị trường đó hiện cũng bị cạnh tranh rất gay gắt, trong đó phải kể đến những nước có thể cạnh tranh nhất, ví dụ Nga - thị trường truyền thống của Việt Nam, tiếp theo là Hàn Quốc khi họ bắt đầu vươn lên thành một quốc gia xuất khẩu vũ khí đứng hàng thứ 4, thứ 5 trên thế giới. Do đó, khả năng cạnh tranh của vũ khí Pháp hiện nay ở thị trường Việt Nam cũng xuống đi rất nhiều.Nói tóm lại vẫn là yếu tố khả năng cạnh tranh của vũ khí Pháp và nhu cầu của Việt Nam thông qua đánh giá về giá cả cũng như lợi ích mà vũ khí đó mang lại cho Việt Nam cũng như với chiến lược quốc phòng tổng thể của Việt Nam. Còn vấn đề liên quan đến địa-chính trị cũng có nhưng không quan trọng trong cân nhắc của Việt Nam, đặc biệt là liên quan đến mua bán vũ khí hoặc tiềm năng hợp tác quốc phòng với Pháp.RFI : Vậy trong tương lai, Pháp và Việt có thể tiếp tục hợp tác trên khía cạnh nào ?Nguyễn Thế Phương : Vấn đề có thể được đẩy mạnh trong tương lai là hai bên tăng cường hợp tác công nghiệp quốc phòng. Ví dụ Pháp và Việt Nam có một số chương trình hợp tác chung để phát triển chung một loại vũ khí nào đó hoặc phát triển được một công nghệ vũ khí nào đó cho Việt Nam. Điều này có thể có khả năng xảy ra, thậm chí là còn cao hơn rất nhiều so với việc Việt Nam mua một loại vũ khí nào đó của Pháp. Bởi vì chính sách hiện nay của Việt Nam cũng là ưu tiên tăng cường kết nối giữa Việt Nam và các nước tiên tiến và giúp đỡ Việt Nam phát triển công nghiệp quốc phòng thay vì mua sắm vũ khí của nước ngoài.Ưu tiên này cũng dẫn tới khả năng trong tương lai ngắn sẽ không có một hợp đồng lớn nào liên quan đến kiểu mua máy bay, tầu ngầm, tầu chiến mà chỉ là những “phần mềm” đằng sau : hợp tác về gìn giữ hòa bình, huấn luyện cũng như là liên quan tới công nghiệp quốc phòng là chủ yếu. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.
1/15/2024 • 9 minutes, 33 seconds
Gạo xuất khẩu Việt Nam hưởng lợi nhờ nhu cầu thế giới tăng
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 1/11, so với nhóm quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, giá gạo Việt Nam đang có mức cao nhất. Cụ thể, giá gạo tấm 5% của Việt Nam đã lên tới 653 đôla/tấn, cao hơn nhiều so với giá gạo Thái Lan ( 560 đôla/tấn ). Theo Báo Điện tử Chính phủ, Bộ Công Thương uớc 10 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu khoảng 7,1 triệu tấn gạo, trị giá gần 4 tỷ đôla, tăng 17% về lượng và tăng 35% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Kim ngạch 4 tỷ đôla chỉ trong 10 tháng năm 2023 được coi là con số cao nhất sau 34 năm gạo Việt tham gia vào thị trường thế giới. Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu được 8,2 triệu tấn gạo.Nguyên nhân chủ yếu khiến giá gạo Việt Nam tăng cao, theo các chuyên gia, thứ nhất là do nhu cầu của thị trường thế giới hiện rất lớn mà nguồn cung lại đang giảm đi và thứ hai là chất lượng gạo Việt Nam ngày càng cao.Biến đổi khí hậu khiến nguồn cung gạo trên toàn cầu suy giảm, nhiều quốc gia phải tìm mua lượng gạo lớn để tăng nguồn dự trữ lương thực. Những nước như Indonesia, Trung Quốc, Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ hay Chilê đều tăng nhập khẩu gạo.Trong khi đó, một số nước vì lo ngại cho an ninh lương thực quốc gia nên đã cấm xuất khẩu gạo. Chẳng hạn như Ấn Độ vào tháng 7 năm nay đã ra lệnh cấm xuất khẩu gạo không phải là gạo basmati. Gạo không phải là basmati là gạo rẻ tiền, vốn chiếm đến một phần ba tổng khối lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ, hiện là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Ấn Độ đã dự kiến gỡ lệnh cấm xuất khẩu gạo trong tháng 10, nhưng đến nay vẫn chưa bỏ lệnh này, cho nên thế giới vẫn thiếu hụt nguồn cung từ nước này. Trong khi đó, với sản lượng trên 43 triệu tấn lúa, ngoài việc dành cho tiêu thụ nội địa, chế biến, dự trữ, Việt Nam có thể đảm bảo xuất khẩu 7,5 - 8 triệu tấn gạo.Như vậy gạo của Việt Nam hiện đang có những lợi thế gì, trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Võ Tòng Xuân, hiệu trưởng danh dự Đại học Nam Cần Thơ, cho biết“ Việt Nam có kỹ thuật trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long, chọn giống lúa ngắn ngày, tức là ngắn hơn 100 ngày. Trong quá trình gần 40 năm nay, chất lượng của gạo Việt Nam đã được cải tiến rất nhiều, đặc biệt là vào năm 2019, hai loại gạo ngắn ngày của Việt Nam được quốc tế vinh danh tại hội nghị về gạo ở Philippines là hai loại gạo ngon nhất thế giới, vừa dẻo, ngon cơm, đồng thời có mùi thơm gần giống như gạo thơm của Thái Lan. Giống lúa Việt Nam chọn ra là giống lúa ngắn ngày, đó là lợi thế thứ nhất. Thứ hai, vùng được chọn là vùng an ninh lương thực là vùng dọc theo biên giới Cam Bốt, khi sông Cửu Long vừa vào tới Việt Nam. Chúng ta sử dụng nước sông ở khu vực này đưa sang sông Tiền, nối với một con kênh gọi là "kênh trung ương" đưa nước sang tới tận Long An. Dọc theo con kênh này có rất nhiều kênh sườn để đưa nước xuống phía dưới vùng cao sản này.Phía bên tay trái là sông Hậu thì chúng ta lấy nước từ Tân Châu qua kênh Vĩnh Tế ra gần tới Hà Tiên. Dọc theo con kênh này người ta cũng đã đào rất nhiều con kênh sườn. Vùng là khoảng 1 triệu 500 hectare đất rất là tốt, với nước ngọt luôn có sẵn. Nước mặn ở biển lên thì chưa tới chỗ đó.”Cũng theo giáo sư Võ Tòng Xuân, một thế mạnh nữa đó là dọc theo vùng ven biển, mặc dù có nước mặn, nhưng trong mùa mưa, chúng ta có thể sản xuất một vụ lúa cao sản cũng với chất lượng rất cao. Đồng thời nước mặn không ảnh hưởng trong mùa mưa. Sau khi nông dân thu hoạch lúa thì hết mưa và nước mặn tràn vào, thì họ thả tôm giống để nuôi tôm, làm tăng thêm lợi tức. Còn vùng ở giữa từ Đồng Tháp qua đến Tiền Giang, Vĩnh Long là vùng trước đây trồng 3 vụ lúa nhưng không có chất lượng cao, nên bây giờ nông dân chuyển sang trồng cây ăn quả ( xoài, sầu riêng, mít, sa pô chê… ).Theo đánh giá của giáo sư Võ Tòng Xuân, có thể nói là toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long đã thích nghi được biến đổi khí hậu, nhất là trong những năm vừa qua. Trong những năm tới, với cách quy hoạch, bố trí như thế này, các vụ lúa vẫn có thể hưởng được thiên nhiên của sông Cửu Long, cũng như thời tiết mùa mưa của vùng đồng bằng này, và như vậy Việt Nam luôn có dư lượng gạo để xuất khẩu.Theo cách phân loại của Thái Lan thì có hai loại: gạo thơm thì chỉ trồng được một vụ/năm, còn gạo trắng, tức là gạo từ lúa cao sản, thì có thể trồng 2 vụ/năm. Gạo thơm, ngon cơm của Việt Nam được xếp vào loại gạo trắng Thái Lan, được bán với giá gần 900 đôla/tấn, trong khi đó gạo trắng của Thái Lan chỉ được bán với giá trên 500 đôla. Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, đây là cơ hội để gạo Việt Nam vượt qua gạo Thái Lan, và luôn có đủ để cung cấp cho các nước xung quanh, cho một phần Trung Đông và một phần châu Phi.Với lợi thế như hiện nay, làm sao để đẩy mạnh quảng bá trên thị trường quốc tế để gạo Việt Nam duy trì uy tín một cách lâu dài? Giáo sư Võ Tòng Xuân đề xuất:“Theo thông tin tôi nắm được, các siêu thị Á Châu, nhất là siêu thị của người Việt Nam mình ở châu Âu, đã nhập gạo thơm của Việt Nam. Tuy nhiên, bây giờ chúng ta phải làm kỹ hơn nữa để giữ vững uy tín của gạo Việt Nam. Thứ nhất là phải đặc biệt làm việc với tất cả bà con nông dân để thực hiện quy trình sản xuất “sạch”. Tôi không dám nói là sản xuất gạo hữu cơ, bởi vì gạo hữu cơ thì năng suất không cao. Nhưng khi ta làm theo quy trình “sạch” thì cũng gần như là hữu cơ, nhưng có châm thêm một ít phân hóa học để giúp cây lúa phát triển nhanh hơn và có năng suất cao hơn. Với cách làm này, chúng ta sẽ thay đổi phương pháp bón phân hóa học, trước hết là giảm phân hóa học ít nhất là 50%, rồi phải bón phân lót để giảm thiếu khí nhà kính, vì nếu chúng ta bón phân lót thì khí đạm không bị ôxy hóa, làm cho chất đạm hoàn toàn còn ở trong đất để cung cấp cho cây lúa. Trong khi đó bà con nông dân chúng ta bón thêm phân hữu cơ và vi sinh, để thêm các chất vi lượng và các chất khác cho cây lúa, đồng thời cung cấp các loại vi sinh cho cây lúa hấp thụ lên trên thân cây. Từ đó cây lúa không bị bệnh và nông dân giảm bớt sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng của mình. Theo hướng này thì các doanh nghiệp chế biến gạo để xuất khẩu luôn có một nguyên liệu rất tốt, vừa sạch, vừa có chất lượng ngon cơm. Tôi hy vọng là với cách làm này, chúng ta có thể giữ được uy tín của gạo Việt Nam. Đồng thời tôi rất mong là tới đây, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ rất năng nổ, đi các nơi để giới thiệu gạo ngon của mình với giá tương đối thấp hơn, nhưng đồng thời luôn có đủ để cung cấp cho các khách hàng. Như thế này thì gạo Việt Nam có thể vươn xa và đạt kết quả tốt, trong khi đó bà con nông dân hưởng được một lợi thế là luôn luôn có đầu ra để tiêu thụ sản phẩm của họ.”Thật ra thì về lâu dài, Việt Nam sẽ không tiếp tục xuất khẩu gạo với khối lượng như hiện nay. Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đến năm 2030, được chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2023, dự trù giảm khối lượng xuất khẩu đến năm 2030 xuống còn khoảng 4 triệu tấn/năm và như vậy là kim ngạch xuất khẩu gạo sẽ giảm xuống còn khoảng 2,60 tỷ đôla so với 3,45 tỷ đôla năm 2022. Mục tiêu chính là nhằm "thúc đẩy xuất khẩu gạo chất lượng cao, bảo đảm an ninh lương thực trong nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu".
1/8/2024 • 8 minutes, 58 seconds
2024 : Kỳ vọng ngành du lịch Việt Nam "bùng nổ"
Khoảng 7 giờ tối, phố Bùi Viện ở thành phố Hồ Chí Minh lên đèn, nhiều quán bar bắt đầu mở nhạc hết công suất để thu hút du khách nước ngoài đến khám phá khu phố « Tây » về đêm. Khách du lịch nước ngoài đã trở lại Việt Nam đông hơn nhưng vẫn chưa được như trước đại dịch Covid-19. Tương tự, ở trung tâm thủ đô Hà Nội, có thể thấy du khách trở lại đông hơn, len lỏi theo dòng xe tấp nập trong những khu phố cổ. Thêm nhiều thị trường khách mớiNăm 2023, Việt Nam đã đón hơn 12,6 triệu lượt khách quốc tế, đạt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, con số này mới chỉ tương đương với khoảng 69% so với năm 2019. Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Nhật Bản là những thị trường gửi khách đến Việt Nam lớn nhất. Nhưng ngày càng có thêm nhiều khách đến từ những quốc gia mới, theo quan sát chị Kim Ngân, chủ cửa hàng Gourmet Gift phố Hàng Đào, Hà Nội :« Lượng khách đến Việt Nam thay đổi khá nhiều về quốc tịch so với ngày trước. Trước dịch Covid-19, khoảng 70% khách đến Việt Nam là khách châu Âu. Hiện giờ, Việt Nam đang là điểm đến, nhờ vào việc chính phủ, cũng như Tổng cục Du lịch đưa ra rất nhiều ưu đãi « kích cầu » về du lịch. Ví dụ đối với khách Ấn Độ, có những chuyến bay thẳng, được miễn thị thực. Hoặc đối với khách trong khu vực Đông Nam Á, họ được hưởng lợi từ những chuyến bay giá rẻ hơn. Do đó, về quốc tịch, có thể thấy hiện giờ rất đa dạng. Khách châu Phi cũng có rất nhiều, rồi châu Âu, châu Á, kể cả những đất nước rất xa xôi mà ngày xưa mình không bao giờ nghĩ họ sẽ đến Việt Nam, như Israel hoặc những nước ở vùng Bắc Âu như Đan Mạch, Phần Lan… mà trước đây gần như là không có. Nói chung bây giờ khách Ấn Độ rất nhiều, khách Philippines, Singapore, khách Trung Quốc thì ở đâu cũng có, khách Mông Cổ cũng rất nhiều ».Theo trang web Skift ngày 18/12, Việt Nam là điểm đến được người Ấn Độ tìm kiếm nhiều nhất trên Google trong năm 2023 (tiếp theo là Goa, Bali, Sri Lanka, Thái Lan...). Đối với nhiều người Ấn Độ, Việt Nam vẫn là một điểm chưa được khám phá trong khi chi phí du lịch Việt Nam thấp hơn từ 10-15% so với nhiều nước Đông Nam Á khác. Điểm này đặc biệt hấp dẫn giới trẻ Ấn Độ từ 25-35 tuổi vì cùng với ngân sách như vậy, họ nhận được dịch vụ tốt hơn ở Việt Nam. Rất nhiều bloggeur Ấn Độ quảng bá cho du lịch Việt Nam là điểm đến thân thiện với chi phí phải chăng. Du khách cao tuổi Ấn Độ thì bị thu hút bởi các di tích lịch sử, đền chùa ở Việt Nam.Đây là một trong những thành công của hàng loạt biện pháp cải cách đối với ngành du lịch trong năm 2023, từ thúc đẩy quảng bá du lịch Việt Nam ở nước ngoài đến các thỏa thuận về du lịch với các tổ chức du lịch quốc tế tại một số thị trường trọng điểm và đặc biệt là chính sách thị thực mới, thị thực điện tử, linh hoạt hơn, kéo dài thời gian lưu trú cho công dân một số nước mà Việt Nam đơn phương miễn thị thực để thu hút thêm nhiều du khách.Cần đa dạng hóa dịch vụ và sản phẩm du lịchTrên nhiều trang Facebook cộng đồng Pháp ngữ trao đổi về du lịch Việt Nam, rất nhiều người rất ấn tượng về phong cảnh đa dạng của Việt Nam. Các tỉnh miền núi phía bắc thu hút sự chú ý đặc biệt của khách phương Tây vì có sở thích khám phá, đi bộ đường dài (trekking). Các chuyến « phượt » bằng xe máy cũng thu hút du khách trẻ nước ngoài, đặc biệt là nhờ hệ thống đường xá ngày càng được mở rộng, thuận tiện hơn.Đến Hà Giang, du khách không ngừng đi hết từ trầm trồ này sang trầm trồ khác, từ cảnh quan hùng vĩ đến những ruộng lúa bậc thang trổ vàng tháng 09, tháng 10 hàng năm hoặc đặc sản thịt lợn khô gác bếp, cũng như những đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc ở « Miền đá nở hoa ». Ví dụ thôn Nặm Đăm nổi tiếng là « làng homestay » với những ngôi nhà trình tường độc đáo, theo giải thích của một chủ homestay hoạt động từ năm 2018 :« Ban đầu chính quyền vận động làm. Lúc đó có ba nhà làm mô hình trước. Sau 3, 4 năm, dần dần chính quyền cho phát triển lên thành một làng. Giờ cả làng làm du lịch, khách cũng đông. Lúc đầu mình tự bỏ tiền ra hết, làm xong, đạt được tiêu chuẩn đón khách thì Nhà nước cho 60 triệu để trả nợ, chứ không hỗ trợ ngay lúc đầu.Về cách làm nhà, mình có một cái khuôn giống kiểu đóng gạch, nhưng khuôn này bằng gỗ, to và dài hơn 1 mét, rộng 40-50 cm. Mình cứ lấy đất ở xung quanh, đào xuống sâu tới chỗ có đất vàng, dạng đất sét, sau đó băm cho nhỏ, rồi mang về đổ vào khuôn. Tiếp theo lấy chày giã như giã gạo cho chặt, được một vòng lại tháo ra, rồi giã tiếp, không cần nước. Chỉ nguyên đất, không trộn một cái gì khác, không trộn nước, không bê tông. Đất này càng để lâu càng bền. Nếu không bị nước ngập thì có thể giữ được hơn 100 năm. Kiểu nhà này ấm về mùa đông, mát về mùa hè ».Trở lại Hà Nội, du khách nước ngoài quay lại đã giúp hồi sinh hàng quán, cửa hàng quà tặng ở trung tâm thành phố sau khi phải đóng cửa suốt thời gian dịch Covid-19. Đặc sản của Việt Nam (cà phê, tiêu, hạt macca, hạt điều…) được đóng gói bắt mắt hơn, chất lượng bảo đảm hơn. Chị Kim Ngân, chủ cửa hàng Gourmet Gift, giải thích tại sao cà phê nằm trong « check list » làm quà của khách du lịch :« Lý do là Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê thứ hai thế giới, sau Brazil, nhưng là nước số 1 về cà phê robusta. Đối với sản phẩm cà phê, ở Việt Nam có khoảng 15 loại khác nhau. Ngoài cà phê Việt Nam và cà phê chồn ra, còn có nhiều loại khác như cà phê sôcôla, bởi vì Việt Nam cũng rất nổi tiếng về cacao. Tiếp theo là một số loại cà phê có phong cách giống cà phê của Ý, cà phê arabica hoặc cà phê mật ong có hậu vị ngon hơn. Ở Việt Nam, một trong những sản phẩm cà phê được khách du lịch nước ngoài ưa chuộng nhất, có hai dòng : cà phê chồn và cà phê truyền thống. Cà phê chồn ngày trước có giá rất đắt. Nhưng đến hiện tại, khi cà phê chồn được biết nhiều hơn trên thế giới và người ta muốn giá thành của cà phê chồn hợp lý hơn, thì ở Việt Nam, người ta nuôi chồn trong trang trại và cho con chồn ăn cà phê, nên sản lượng sẽ nhiều hơn và đồng thời là giá thành sẽ thấp hơn. Nên hiện giờ, cà phê chồn nuôi chỉ rơi vào khoảng 2 triệu/kg, còn cà phê chồn tự nhiên vẫn giữ giá khoảng 25 triệu đồng/kg.Loại cà phê thứ hai là cà phê truyền thống của Việt Nam. Mỗi cửa hàng có một công thức trộn riêng bởi vì đó là loại cà phê phối trộn. Có nghĩa là cùng là cà phê Việt Nam, mỗi cửa hàng sẽ có một đặc trưng và có một công thức riêng ».Biến ngành công nghiệp không khói thêm “xanh” hơnDù hoạt động du lịch đang dần được khôi phục nhưng nhìn chung, ngành du lịch Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Tại Hội nghị phát triển du lịch Việt Nam ngày 15/11, thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc đến tình trạng « mạnh ai nấy làm » thiếu liên kết chặt chẽ giữa các ngành, sản phẩm du lịch thiếu sáng tạo, đặc sắc, thường bị sao chép, chắp vá giữa các địa phương hay doanh nghiệp, thiếu sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch được tổ chức chuyên nghiệp…Nhiều thành phố, đặc biệt là Hà Nội, đã tập trung nâng cao giá trị kiến trúc, văn hóa địa phương khi cho trùng tu những công trình kiến trúc cổ và thời Pháp thuộc, tạo điểm nhấn bất ngờ. Nhiều tour du lịch đêm cũng được tổ chức (tour Hoàng Thành Thăng Long, di tích Hỏa Lò...). Đến năm 2025, các thành phố lớn sẽ phấn đấu có ít nhất một mô hình phát triển sản phẩm du lịch đêm. Điều đáng tiếc là văn hóa bảo tàng vẫn chưa được phát triển ở Việt Nam trong khi hầu hết các tòa nhà bảo tàng đều là những công trình kiến trúc có giá trị cao. Một số bảo tàng, như bảo tàng Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, thiếu chuyên nghiệp trong cách tổ chức, sơ sài, không nâng được giá trị của các tác phẩm được trưng bày.Việc bảo vệ môi trường cũng là một vấn đề được du khách nước ngoài đề cao và đòi hỏi ngành du lịch Việt Nam thích ứng. Trang web Vietnamplus ngày 19/10/2023 trích dẫn một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, thuộc Tổng cục Du lịch, theo đó 76% du khách quốc tế sẵn sàng giảm rác thải trong thời gian đi nghỉ ; 62% sẵn sàng tiêu dùng sản phẩm địa phương ; 45% sẵn sàng sử dụng các phương tiện giao thông ít tác động đến môi trường… Xu thế này ngày càng được các nhà kinh doanh sản phẩm du lịch áp dụng để thuyết phục khách hàng, như giải thích của chị Kim Ngân :« Trước đây, ở Việt Nam thì cà phê được đựng vào túi ni lông. Nhưng giờ có thể nhìn thấy là tất cả sản phẩm, đồ trang trí trong cửa hàng đều là những sản phẩm thân thiện với môi trường, làm từ mây tre đan. Ngay bản thân túi đóng gói này cũng có thể phân hủy được và làm từ giấy carton, chứ không làm từ bao bì ni lông. Hiện giờ Việt Nam cũng rất theo kịp thời đại. Mình có một số loại cà phê bảo vệ môi trường, ví dụ cà phê phin giấy, giấy đó sẽ dùng một lần, sau đó vất đi và cũng là sản phẩm tự phân hủy ».Nâng cao trình độ chuyên môn của người làm du lịchNgành du lịch đặt mục tiêu đón 17-18 triệu lượt khách quốc tế năm 2024, tăng thêm 5-6 triệu khách so với năm 2023. Để thu hút thêm du khách, bộ trưởng Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch đề xuất chính phủ miễn thị thực ngắn hạn cho khách từ thị trường lớn, tiềm năng như Trung Quốc, Ấn Độ, mở rộng diện miễn thị thực đơn phương cho khách từ các nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam, chi tiêu nhiều như Úc, Canada, Mỹ, các nước còn lại trong Liên Hiệp Châu Âu - đây cũng là kiến nghị của Phòng Thương Mại Châu Âu. Ngoài ra, cấp thị thực từ 3-5 năm cũng được đề nghị thí điểm để thu hút khách phân khúc cao cấp hoặc đã nghỉ hưu.Nhưng để phục vụ được lượng khách như vậy, ngành du lịch Việt Nam cần cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, hiện « thiếu trình độ chuyên môn, thiếu tay nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế », theo nhận định của phó tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Quốc Gia Nguyễn Lê Phúc, được trang web Lao Động trích dẫn ngày 22/12. So với các nước trong khu vực, lao động du lịch Việt Nam còn hạn chế về kỹ năng mềm, khả năng ngoại ngữ, kinh nghiệm, năng suất lao động và tính chuyên nghiệp. Trong khi đó, việc đào tạo chỉ tập trung một số ngành nghề, dẫn đến phát triển thiếu bền vững.Ngành du lịch Việt Nam, cũng như thế giới, vẫn chưa hồi phục hoàn toàn sau những năm bị hạn chế vì đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, với tinh thần điều chỉnh thiếu sót, cũng như những tham vọng và kế hoạch liên tục được đưa ra, có thể kỳ vọng du lịch Việt Nam bứt phá trong năm 2024. Đây cũng là mong mỏi của những người làm trong ngành du lịch như chị Kim Ngân : « Hy vọng là những chính sách kích cầu du lịch như này thì năm tới (2024), Việt Nam sẽ là một điểm tới bùng nổ bởi vì Việt Nam có quá nhiều thứ để xem. Thế nên hy vọng là sẽ ổn ! ».
1/1/2024 • 10 minutes, 57 seconds
Cộng đồng Công Giáo Việt Nam nóng lòng chờ đón giáo hoàng Phanxicô
Khi đến thăm Tòa Tổng Giám Mục Huế ngày 14/12/2023, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã thông báo với Tổng Giám mục Tổng giám phận Huế Giuse Nguyễn Chí Linh là ông vừa ký Thư mời giáo hoàng Phanxicô sang thăm Việt Nam để “chứng kiến sự phát triển về kinh tế-xã hội và đời sống tôn giáo ở Việt Nam.” Đối với Giáo hội Công Giáo và giáo dân Việt Nam, đây quả là một tin vui giữa mùa Giáng Sinh 2023, vì từ rất lâu họ vẫn ước ao được đón tiếp một vị giáo hoàng đến thăm một quốc gia tuy chỉ có khoảng 8% theo Công Giáo ( 7,2 triệu giáo dân ), nhưng đây là một cộng đồng mà đức tin được thể hiện rất mạnh mẽ và Giáo hội vẫn rất tuân phục Tòa Thánh.Ngày giờ chuyến viếng thăm của giáo hoàng Phanxicô chưa được xác định, nhưng trong chuyến thăm Tòa Tổng Giám Mục Huế, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã bày tỏ mong muốn cộng đồng Công giáo Việt Nam cùng phối hợp với các cơ quan nhà nước để sớm có cơ hội được đón giáo hoàng tới thăm Việt Nam “trong một ngày không xa.”Trong lịch sử, thật ra quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh Vatican với Việt Nam chưa bao giờ được thiết lập. Cho tới hiện nay, cấp bậc cao nhất trong mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam mới chỉ là Khâm sứ Tòa Thánh, nhưng sau năm 1975, Vatican không còn Khâm sứ nào ở Việt Nam.Sau nhiều thăng trầm, quan hệ giữa hai bên đã đạt được một bước tiến lớn với việc thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”, khi ông Võ Văn Thưởng thăm Tòa Thánh và gặp giáo hoàng Phanxicô vào tháng 7 vừa qua. Đến ngày 23/12 vừa qua, Tòa thánh Vatican đã chính thức công bố việc Tổng Giám mục Marek Zalewski được giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam. Tổng Giám mục Marek Zalewski nguyên là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore và đã kiêm nhiệm Đặc phái viên không Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam từ năm 2018.Tuy vậy, hãy còn quá sớm để nêu lên khả năng Hà Nội và Tòa Thánh bình thường hóa bang giao. Nhân ngày Lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe tâm tình của Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, nguyên Giám mục Giáo phận Vinh và Giáo phận Hà Tĩnh và cũng đã từng là Chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Bài phỏng vấn qua điện thoại được thực hiện ngày 20/12/2023.RFI: Thưa Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, sau khi nghe tin chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã chính thức ký thơ mời giáo hoàng sang thăm Việt Nam, tâm trạng của Đức cha nói riêng và của Giáo hội Công Giáo Việt Nam nói chung là như thế nào?Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Đó là một niềm vui rất lớn đối với các vị lãnh đạo Giáo hội và tất cả giáo dân Việt Nam, vì nhiều lần chúng tôi đã nói là giáo dân Việt Nam rất gắn bó và yêu mến các Đức Thánh Cha, đặc biệt là những vị lãnh đạo Giáo hội trong thời gian gần đây. Chúng tôi nhiều khi rất buồn khi thấy Đức Thánh Cha có thể đi thăm khắp nơi, kể cả sang Mông Cổ, nơi mà số giáo dân chỉ hơn 1.000 người. Trong khi đó, có lẽ ít có nơi nào có một thành phần giáo dân tận tụy với đạo Chúa và hy sinh nhiều cho đạo Chúa như là ở Việt Nam. Thế mà ước nguyện được đón Đức Thánh Cha bao nhiêu năm rồi vẫn chưa được thành tựu. Thành thử chúng tôi rất vui, với tư cách là người Công Giáo Việt Nam, khi chủ tịch nước thông báo chính phủ Việt Nam chấp nhận Đức Thánh Cha sẽ được sang thăm Việt Nam. Tiến trình chuẩn bị chắc là phải chờ lâu và đến khi đó thì hai bên mới xác định năm nào, ngày nào và những nơi nào Đức Thánh Cha sẽ ghé thăm, thì lúc đó mới có sự chuẩn bị.RFI: Thưa Đức cha, trước mắt, trong quan hệ giữa Việt Nam với Vatican đã có một bước tiến đáng kể, đó là Việt Nam chấp nhận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam. Việc thành lập chức vụ đó hiện đang được tiến hành đến đâu, thưa Đức cha?Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Cho đến nay, thật sự thì Việt Nam có đại diện không thường trú của Vatican. Đó là đẳng cấp thấp nhất trong lĩnh vực ngoại giao. Bây giờ mới thực hiện đẳng cấp cuối cùng của ngành ngoại giao. Đó là một niềm vui. Chính vì vậy chúng tôi cũng hy vọng là trong tương lai thì quan hệ giữa Việt Nam với nhà nước Vatican sẽ được bình thường hơn. Đó cũng là để có thể cải chính điều mà dư luận ở ngoại quốc vẫn nói là Việt Nam luôn luôn hành động theo Trung Quốc, Trung Quốc làm gì thì lúc đó Việt Nam mới làm vậy. Phải chăng bây giờ nên có một dấu hiệu để chứng tỏ rằng trong quan hệ với Vatican, Việt Nam cũng làm khác hơn Trung Quốc. Với tư cách là một người Việt Nam, một người Công Giáo Việt Nam, chúng tôi rất vui mừng, hoan hỉ trước thông tin đó. Còn có rất nhiều chuyện trong thực tế lúc đó thì mới giải quyết. Đây mới là trên nguyên tắc. Chắc chắn là lúc đó phải tạo cơ hội để Tòa Thánh có một trụ sở. Trước đây Tòa Thánh không có trụ sở ở Hà Nội hay Sài Gòn. Trong tương lai thì thế nào cũng phải có văn phòng của vị đại diện. Chắc chắn rằng trên thực tế phải có thời gian để giải quyết : văn phòng đặt ở nơi nào và có diện tích như thế nào. Đó sẽ là những đàm phán cụ thể giữa hai bên, bây giờ chưa thể nói được. RFI: Thưa Đức cha, từ việc bổ nhiệm đại diện thường trú cho đến việc bình thường hóa bang giao giữa Hà Nội với Vatican thì còn những cản ngại nào? Cho tới nay vẫn có một vấn đề gây rắc rối trong quan hệ giữa Việt Nam với Vatican, đó là bổ nhiệm các giám mục. Hiện nay vấn đề có đã được khai thông so với trước đây chưa?Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Tôi cũng không rõ. Đó là vấn đề nguyên tắc giữa Tòa Thánh với nhà nước. Trước đây nói rằng nhà nước chủ động trong vấn đề bổ nhiệm các giám mục thì cũng không đúng. Nguyên tắc tới đây thì bổ nhiệm là do Tòa Thánh quyết định, rồi sau đó thì thông báo lại cho nhà nước. Đức Khâm sứ hiện tại cũng đã một lần nói một cách công khai là cho đến thời gian cách đây vài năm, nhà nước Việt Nam chỉ có veto ( phủ quyết ) trong một trường hợp. Như vậy là đa số các trường hợp mà Giáo hội đề nghị thì nhà nước đã chấp nhận, nếu đúng theo tuyên bố của vị đại diện Tòa Thánh cách đây không lâu.RFI: Theo quan sát của Đức cha, thì Giáo hội Công Giáo nói và các giáo xứ năm nay đón mừng Lễ Giáng Sinh trong bầu không khí như thế nào?Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Cho đến hôm nay, mặc dù Lễ Giáng Sinh không phải là một ngày nghỉ lễ, tuy nhiên, chúng tôi vẫn hãnh diện và vui mừng rằng có lẽ trong cả năm, ở Việt Nam không có ngày lễ nào nhộn nhịp và vui tươi như Lễ Giáng Sinh. Đó là một đêm của ánh sáng, một mùa mà mọi người đều cảm nhận bầu không khí Giáng Sinh, dù là người Công Giáo hay người không Công Giáo. Khi đến Lễ Giáng Sinh thì những làng xóm, những khu phố luôn có ánh sao, có đèn. Trong vài năm trở lại đây thì ngay cả chương trình phát thanh, truyền hình của nhà nước vẫn có những bài hát thánh ca. Trong dân gian thì có thể nói, trong cả một năm Dương lịch và Âm lịch, không có lễ nào lớn hay vui tươi, với bầu không khí đặc biệt như Lễ Giáng Sinh. Chúng tôi thấy càng ngày, ngay cả những giới ngoài Công Giáo cũng cảm thấy có một cái gì đó đặc biệt trong ngày Lễ Giáng Sinh. Năm nay, với những thông tin mà chủ tịch nước vừa thông báo, thì chắc chắn niềm vui đó, đêm Giáng Sinh và ánh sáng Giáng Sinh sẽ ngày càng lan tỏa. RFI: Với tư cách cựu chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình, Đức cha có một thông điệp nào nhắn gởi đến thính giả của RFI?Giám mục Nguyễn Thái Hợp: Với tư cách một giám mục đã về hưu, đã nghỉ những chức vụ mà Hội đồng Giám mục giao phó, tôi không thể phát biểu với tư cách chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhưng với tính cách một người Công Giáo, một cựu giám mục, tôi vẫn ước mong đêm Giáng Sinh là một đêm ánh sáng. Ánh sáng đó không chỉ là ánh sáng bên ngoài, của đèn, nến, mà là ánh sáng của tâm hồn. Ước mong là với tin vui mà chủ tịch nước gởi đến cựu chủ tịch Hội đồng Giám mục, người Công Giáo chúng tôi biểu hiện tin vui đó không chỉ bằng niềm vui tâm hồn, mà còn phải làm sao cuộc đời của chúng tôi cũng trở thành ánh sáng của niềm vui. Chúng tôi ước mong rằng người Công Giáo, qua cuộc sống của mình, qua niềm tin của mình, càng biểu lộ được niềm vui của đêm Giáng Sinh và hy vọng niềm vui đó lan tỏa cho những anh chị em chúng tôi, mặc dù họ chưa chia sẽ niềm tin tôn giáo với chúng tôi.Nhân dịp này, xin được chúc mừng tất cả quý vị thính giả của đài RFI một Giáng sinh an bình và ước mong rằng quý vị cũng chia sẽ niềm vui với chúng tôi. Xin chân thành cảm ơn.RFI: RFI Việt ngữ xin cám ơn Đức cha Nguyễn Thái Hợp và xin kính chúc Đức cha một mùa Giáng sinh thật an lành và thật nhiều sức khỏe.
12/25/2023 • 9 minutes, 38 seconds
Việt Nam: Không "chung vận mệnh", nhưng phải “chia sẻ tương lai” với Trung Quốc
Trong hai ngày 12 và 13/12/2023, chủ tịch kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình đã mở chuyến viếng thăm cấp nhà nước ở Việt Nam, chỉ vài tháng sau chuyến đi của tổng thống Mỹ Joe Biden. Khác với tổng thống Biden, ông Tập Cận Bình đã được đón tiếp rất long trọng, với những nghi thức cao nhất dành cho một lãnh đạo nước ngoài, thậm chí thủ tướng Phạm Minh Chính đã ra tận sân bay để đón chủ tịch Trung Quốc ngay tại chân cầu thang của máy bay.Chuyến thăm Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc diễn ra sau khi Hà Nội vừa nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện”, cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp quan hệ ngoại giao của Việt Nam, và như vậy đặt Mỹ ngang tầm với Trung Quốc. Cho nên, ông Tập Cận Bình đã cố thúc ép Việt Nam tăng cường hơn nữa quan hệ với Trung Quốc, để Hà Nội không xích lại quá gần Washington, trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung vẫn gay gắt. Theo Tân Hoa Xã, phát biểu tại Hà Nội ngày 13/12, chính ông Tập Cận Bình cùng đã kêu gọi Việt Nam cùng với Trung Quốc “chống mọi mưu toan nhằm làm xáo trộn vùng Châu Á-Thái Bình Dương”, áp chỉ sự can dự ngày càng mạnh của Hoa Kỳ vào khu vực này. Trong bản tuyên bố chung được công bố sau chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, hai bên nhắc lại Việt Nam và Trung Quốc là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng".Từ "chung vận mệnh" thành "chia sẽ tương lai"Chính là dựa trên sự tương đồng này mà hai nước “nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược”. Thật ra thì ban đầu Trung Quốc đã muốn ép Việt Nam chấp nhận xây dựng cái gọi là “Cộng đồng chung vận mệnh” như đối với Lào, Cam Bốt và Miến Điện. Nhưng sang đến Việt Nam thì cụm từ này được sửa đổi thành “Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho có vẻ ít mang tính ràng buộc hơn. Thật ra thì dường như đây là kết quả của nhiều cuộc đàm phán kéo dài nhiều tháng nhằm tìm ra một khái niệm phù hợp nhất để mô tả mối quan hệ mới giữa hai quốc gia “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.Trả lời RFI Việt ngữ ngày 13/12/2023, nhà nghiên cứu Hoàng Việt, thuộc Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, nhận định:“ Ở đây chúng ta thấy ít nhất nổi lên hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất là Việt Nam đã không chọn cụm từ “cộng đồng chung vận mệnh”. Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia thứ 8 tham gia vào “cộng đồng chung vận mệnh” với Trung Quốc. Trong khối ASEAN, trừ Đông Timor, chỉ có 2 quốc gia là Singapore và Philippines chưa tham gia.Thế thì vì sao khi đến Việt Nam thì Trung Quốc đổi lại thành là “cộng đồng chia sẻ tương lai”? Một là, phía Việt Nam cho rằng “chung vận mệnh” có nghĩa là “anh sống thì tôi sống, anh chết thì tôi chết”, như vậy vô hình chung nó xác định Việt Nam đã chọn bên, dù Việt Nam đã chính thức tuyên bố là không chọn bên nào cả. Chính vì vậy, Việt Nam muốn đổi tên thì mới chấp nhận tham gia “cộng đồng” này.Lý do thứ hai, nói thẳng là người dân Việt Nam không thích “chung vận mệnh” với Trung Quốc, cho nên phía Trung Quốc phải chiều lòng Việt Nam, chuyển sang cụm từ khác là “chia sẻ tương lai”. Hai bên đều có sự nhượng bộ nhau.Tôi được biết là trước chuyến viếng thăm của ngoại trưởng Vương Nghị, đã có rất nhiều trao đổi giữa hai bên, kể cả đến chuyến thăm của ông Vương Nghị để chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, hai bên vẫn tiếp tục bàn luận. Có rất nhiều vấn đề hai bên chưa thống nhất được và có lẽ sau đó mới thống nhất được. Một trong những vấn đề gai góc nhất chính là “cộng đồng chung vận mệnh” hay “cộng đồng chia sẻ tương lai”.Được tiếp đón long trọng hơn BidenNhư đã nói ở trên, khi sang thăm Việt Nam vào tuần trước, chủ tịch Trung Quốc đã được giới lãnh đạo Hà Nội đón tiếp long trọng hơn nhiều so với khi tiếp tổng thống Mỹ Biden. Vì sao có sự khác biệt này, nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích: “ Chuyện này là đương nhiên. Trung Quốc là quốc gia đầu tiên mà Việt Nam thiết lập quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện”. Cho đến bây giờ thì đã có 6 quốc gia đã trở thành “đối tác chiến lược toàn diện” của Việt Nam, nhưng Trung Quốc là nước đầu tiên. Trong các phát biểu, các lãnh đạo Việt Nam luôn khẳng định trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Trung Quốc luôn là ưu tiên hàng đầu. Điều này cũng hợp lý, bởi vì thứ nhất Trung Quốc là một cường quốc lớn nhất ở châu Á và nhất nhì thế giới. Trung Quốc lại là láng giềng của Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam hiểu được cái giá của việc ở bên cạnh một người khổng lồ như thế nào.Ngay cả giới nghiên cứu ở Việt Nam cũng nói rằng, nếu Việt Nam muốn phát triển thì phải có hòa bình, mà muốn có hòa bình thì Việt Nam phải có quan hệ tốt với Trung Quốc. Đó là lý do vì sao mà Việt Nam luôn đặt vị trí của Trung Quốc lên hàng đầu trong chính sách đối ngoại.Đương nhiên là trong buổi đón tiếp ông Tập Cận Bình có những sự khác biệt so với khi đón tiếp ông Biden. Sự khác biệt này không phải là do phía Việt Nam đặt ra. Qua một số tiết lộ, đặc biệt là của thứ trưởng Hà Kim Ngọc, bản thân Hoa Kỳ và ông Biden cũng không đòi hỏi những chi tiết như trải thảm đỏ đón ông Biden từ sân bay, nghi thức bắn 21 phát đại bác, cho nên Việt Nam không sử dụng nghi thức đó.Còn phía Trung Quốc thì khác. Điều này cũng cho thấy cái tư duy của Trung Quốc và tư duy của Hoa Kỳ có khác nhau. Đối với Hoa Kỳ thì làm được việc mới là quan trọng, chứ không phải là các nghi thức. Nhưng đối với Trung Quốc thì đây là một gặp mang tính biểu tượng rất lớn, vừa là hai nước xã hội chủ nghĩa, vừa là hai nước láng giềng. Và trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung quyết liệt cả về vị thế và ảnh hưởng, phía Trung Quốc phải thể hiện vai trò của mình. Trung Quốc rất coi trọng những nghi thức, mà theo luật về lễ tân của Việt Nam, trong một chuyến thăm cấp nhà nước cao nhất thì các nghi thức được quy định như là khi đón tiếp ông Tập Cận Bình. Cái này là do hai bên thỏa thuận với nhau.”Trong chuyến thăm của Tập Cận Bình ở Việt Nam, Hà Nội và Bắc Kinh đã đồng ý sẽ gia tăng hợp tác về các vấn đề an ninh, đẩy mạnh quan hệ giữa ngành công nghiệp quốc phòng của hai nước, đồng thời ký hàng chục hiệp định hợp tác. Vẫn còn nguy cơ căng thẳng vì Biển ĐôngTuy quan hệ Việt- Trung đang trong giai đoạn hữu hảo như vậy, nhưng cũng không nên quên rằng giữa hai nước căng thẳng có thể bùng nổ trở lại do vấn đề tranh chấp Biển Đông, nhất là do những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở vùng biển mà họ khẳng định chủ quyền gần như toàn bộ. Bản tuyên bố chung được công bố trong chuyến đi Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có ghi: “Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.” Nhưng theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, vấn đề là Trung Quốc có thực hiện đúng lời hứa giải quyết tranh chấp “bằng biện pháp hòa bình” hay không: “Có hai vấn đề lớn, thứ nhất là tranh chấp Biển Đông, thứ hai xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nhiều lúc gặp khó khăn do những rào cản đặc biệt mà phía Trung Quốc đưa ra.Tranh chấp Biển Đông là tranh chấp cực kỳ phức tạp và khó khăn. Nhưng quan điểm của Việt Nam là không phải vì tranh chấp Biển Đông mà không thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Chúng ta chỉ nhìn quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines thì sẽ thấy, mặc dù hai nước cho tới nay vẫn căng thẳng hàng ngày trên khu vực Biển Đông, cụ thể là ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough, nhưng quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Philippines vẫn không ngừng tăng trưởng. Báo chí Việt Nam có chụp hình ông Tập Cận Bình và tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng ngồi dự tiệc trà, xung quanh có mấy cây tre, đó cũng là hàm ý nêu bật chính sách “ngoại giao cây tre” ( giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc ) của Việt Nam. Trong vấn đề Biển Đông, thứ nhất là Việt Nam vẫn bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, toàn vẹn lãnh thổ, cũng như những quyền mà Việt Nam được hưởng theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, đồng thời tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc trong việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng muốn có những biện pháp để nếu Trung Quốc và Việt Nam có những bất đồng, căng thẳng thì hai bên có thể tìm ra những kênh đối thoại để giảm bớt căng thẳng, ví dụ như kênh chính phủ, hoặc là kênh ngoại giao nhân dân, hoặc là kênh giữa hai đảng Cộng sản. Đó cũng cho thấy Việt Nam muốn giải quyết tranh chấp hòa bình và muốn hòa hoãn với Trung Quốc.Tranh chấp Biển Đông là vấn đề phức tạp và khó khăn, nhưng không vì thế mà không thúc đẩy những quan hệ khác, đặc biệt là quan hệ kinh tế thương mại, mà hiện còn rất nhiều “dư địa” để phát triển, tại sao hai nước lại không tận dụng. Có lẽ vấn đề Biển Đông sẽ còn tồn tại trong tương lai. Đương nhiên phía Việt Nam cố gắng giải quyết bằng bằng những biện pháp hòa bình và qua đối thoại, nhưng điều này còn phụ thuộc vào phía Trung Quốc. Mặc dù phía Trung Quốc cũng đã có những tuyên bố tương tự, tức là giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển và hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC, nhưng chúng ta cũng không chắc là Trung Quốc có giữ được lời hứa của họ không. Nếu xảy ra thì chúng ta sẽ xem Việt Nam ứng xử trong trường hợp này như thế nào.” Thật ra, một trong những lý do khiến Việt Nam và Trung Quốc thắt chặt hơn nữa quan hệ song phương, đó chính là cả hai nước đều quan ngại về các thế lực “thù địch” bên ngoài và sự cần thiết phải bảo vệ sự ổn định trong nước, thể hiện qua thỏa thuận mới về an ninh, được ký kết nhân chuyến viếng thăm của chủ tịch Tập Cận Bình. Theo một nhà phân tích Trung Quốc, được nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trích dẫn ngày 14/12/2023, Bắc Kinh và Hà Nội đã đồng ý tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh, đặc biệt là về “an ninh chế độ và an ninh thể chế”. Đây là lần đầu tiên hai nước đề cập đến an ninh của chế độ trong một tuyên bố chung như vậy. Cụ thể, hai bên sẽ “tăng cường giao lưu tình báo và phối hợp chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác trong các vấn đề chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống "diễn biến hòa bình", "cách mạng màu" của các thế lực thù địch, phản động”.
12/18/2023 • 9 minutes, 37 seconds
Đầu tư vào Mỹ và những thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
Hợp tác Đối tác Chiến lược Toàn diện đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan hệ Việt-Mỹ, đặc biệt trong các lĩnh vực trọng điểm. Tính đến hết 2022, Mỹ là nhà đầu tư lớn thứ 11 vào Việt Nam với 1.216 dự án có tổng vốn 11,4 tỉ đô la. Không chỉ nhận dòng vốn từ Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng gia tăng đầu tư sang thị trường Hoa Kỳ vào lúc Việt Nam muốn tìm kiếm công nghệ nguồn, đặc biệt là công nghệ cao, mà Mỹ thì đi đầu thế giới về lĩnh vực này. Theo trang VTV ngày 13/05/2023, « trong những năm 2013-2022, Việt Nam đứng thứ 9 trong 10 nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương có cam kết đầu tư lớn nhất vào Mỹ ». Hiện tại, nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô và pin xe điện, phần mềm, thiết kế nội thất, xây dựng, vận tải, thực phẩm, bao bì… đã, đang và có kế hoạch đầu tư vào Mỹ.Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những thuận lợi và khó khăn như nào khi chinh phục thị trường Mỹ ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Eric Mottet, giảng viên Đại học Công giáo Lille (Université Catholique de Lille), giám đốc nghiên cứu tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp (IRIS), nguyên giáo sư địa-chính trị Đại học Québec ở Montréal (UQAM, Canada).RFI : Chuyến công du Hà Nội của tổng thống Joe Biden làm gia tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư Mỹ vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có nhiều công ty Việt Nam tìm cách đầu tư vào Hoa Kỳ. Liệu đây có phải là một bước ngoặt mới, chứng tỏ doanh nghiệp Việt đã đủ sức nhìn xa ?Eric Mottet : Đúng là trong chuyến công du ngắn ngủi của ông Joe Biden, chỉ khoảng 24 tiếng vào tháng 9, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một Hiệp định Đối tác Chiến lược Toàn diện, trong đó nội dung kinh tế và công nghệ rất được chú trọng. Chính lĩnh vực công nghệ và đổi mới có thể sẽ trở thành một trụ cột trong quan hệ song phương, đặc biệt là đối với Việt Nam. Chính phủ có kế hoạch hiện đại hóa nền kinh tế, công nghiệp từ nay đến năm 2030, cho nên rất quan tâm đến những công nghệ hiện Việt Nam chưa có.Đúng, đây là một bước ngoặt đối với các công ty Việt Nam bởi vì hiện giờ có nhiều doanh nghiệp Mỹ đến tìm đối tác Việt Nam. Ngược lại, dù với tỉ lệ thấp hơn nhiều, cũng có nhiều công ty Việt Nam đầu tư vào Mỹ, thậm chí mua lại một số công ty ở Mỹ để có được công nghệ, sau đó có thể chuyển ngược về Việt Nam.Tôi có nghiên cứu một chút về trường hợp hai đại tập đoàn Việt Nam, được truyền thông nhắc đến nhiều trong những tháng qua vì đầu tư vào Mỹ. Trước tiên là nhà sản xuất ô tô VinFast, công ty thành viên thuộc tập đoàn Vingroup mà tôi sẽ đề cập chi tiết hơn. Tiếp theo là FPT, tập đoàn chuyên về công nghệ và đào tạo, vừa mua lại một số công ty ở Mỹ, trong đó có cả lĩnh vực trí thông minh nhân tạo, và sẽ tìm cách nào đó để mang những công nghệ này về phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn 2030-2040. Việc mua lại những công ty công nghệ Mỹ giúp FPT có được đội ngũ nhân viên chuyên môn, cho nên cũng phải nhắc đến mong muốn đưa nhân viên có trình độ từ Mỹ về thị trường Việt Nam.Điều thú vị ở đây là chúng ta thấy có sự bổ trợ lẫn nhau đang được hình thành giữa nền kinh tế Việt Nam và Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao.RFI : Tổng thống Donald Trump cũng như tổng thống đương nhiệm Joe Biden đều đặt lợi ích của Hoa Kỳ lên trên hết. Doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư vào Mỹ sẽ phải đối mặt với những khó khăn nào ? Eric Mottet : Chúng ta đang thấy sức mạnh hợp tác thương mại chưa từng có giữa hai nước từ vài tháng nay, bởi vì khoảng 50 doanh nghiệp Mỹ đã đến Việt Nam để tìm đối tác và nghiên cứu xem có thể gây dựng hoạt động gì tại đây. Vấn đề đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu, là họ thường chuyên về bán sỉ, bán lẻ những sản phẩm mà tôi cho rằng hiện kém hấp dẫn đối với thị trường Mỹ. Nhiều doanh nghiệp Mỹ cũng sản xuất những loại hàng đó. Nhưng hiện giờ chúng ta thấy những doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thường hoạt động trong lĩnh vực thông tin-truyền thông và chính họ đang cố gắng đầu tư vào Hoa Kỳ.Vậy một doanh nghiệp thường gặp những khó khăn gì ở Mỹ ? Trước tiên, hiện giờ các công ty Việt Nam chưa có kiến thức hoặc chưa hiểu chắc về thị trường Mỹ để có thể hoạt động lâu dài. Điểm thứ hai, để hoạt động tại Mỹ, họ phải tìm được một đối tác hoặc mua lại doanh nghiệp. Những hoạt động này có kinh phí tương đối lớn. Và đừng quên là rất nhiều lĩnh vực, trong đó có các ngành công nghệ cao ở Mỹ, cũng được bảo mật. Do đó các công ty Việt Nam không thể đầu tư vào tất cả các lĩnh vực vì nhiều lý do khác nhau.Luật pháp Mỹ cũng phức tạp. Khi muốn thâm nhập vào Mỹ, họ thường phải thành lập một chi nhánh 100% Mỹ để tránh gặp rủi ro về tư pháp hoặc thuế khóa. Và đây là vấn đề tương đối phức tạp, mất thời gian và tốn kém. Ngoài ra phải kể đến một khó khăn khác, đó là mỗi bang ở Mỹ hoàn toàn độc lập về luật, đặc biệt là luật lao động. Cho nên vấn đề phức tạp cho các doanh nghiệp Việt Nam là tìm hiểu xem nên hoạt động ở bang nào để có thể lợi hơn về luật lao động.Nói tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư vào Mỹ vẫn đang tìm hiểu về lĩnh vực đầu tư, nhưng luôn nảy sinh những vấn đề phức tạp về kinh tế, tài chính và pháp lý, khiến các công ty mũi nhọn, các doanh nghiệp quan trọng trong một số lĩnh vực ở Việt Nam khó có thể thâm nhập và hoạt động ở Mỹ.RFI :Tuy nhiên, chính phủ Mỹ cũng đưa ra nhiều chế độ ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài, ví dụ trong lĩnh vực sản xuất ô tô điện.Eric Mottet : Chúng ta hiểu rõ tại sao nhiều doanh nghiệp Việt Nam, cũng như của các nước khác, muốn đầu tư vào Hoa Kỳ. Trước tiên, đó là nền kinh tế lớn nhất thế giới, là một thị trường tập trung vào đô la, đồng tiền được sử dụng nhiều nhất thế giới. Theo tôi, đó cũng là một thị trường lao động rất năng động.Đúng là tôi đã đọc thấy rằng Mỹ đã triển khai nhiều cơ chế tích cực cho Việt Nam, nhưng hiện giờ tôi chưa thấy có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có những cơ chế mà doanh nghiệp Việt Nam có thể vận dụng để tiếp cận thị trường Mỹ, ví dụ Cục Quản lý Phát triển Kinh tế (Economic Development Administration, EDA) cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, nhất là khi doanh nghiệp muốn đầu tư để tạo việc làm. Nếu các công ty Việt Nam tạo được một số việc làm nhất định, họ có thể vay với lãi suất ưu đãi để thành lập công ty hoặc chi nhánh.Ngoài ra, còn có Cục Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ (Small Business Administration, SBA) có thể bảo lãnh trong trung hạn và dài hạn các khoản vay của doanh nghiệp cỡ vừa để chi trả cho việc xây dựng nhà máy. Đây phần nào là điều mà VinFast sử dụng để xây dựng nhà máy ở bang North Carolina. Các doanh nghiệp cũng có thể tiếp cận nhiều quỹ khác. Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tạo việc làm ở nông thôn, họ có thể được bộ Nông Nghiệp Mỹ cho vay vốn.Có thể thấy là có rất nhiều cơ chế, nhưng cần nhắc lại là tôi chưa thấy điều gì cụ thể ngoài những thông báo về các cơ chế đặc biệt được dành cho doanh nghiệp Việt Nam muốn hoạt động tại Mỹ.RFI : Vài chục doanh nghiệp Việt hoạt động trong các lĩnh vực logistic, sản xuất đồ gỗ nội thất, xây dựng, bao bì… muốn đầu tư vào Mỹ. Ngoài ra, còn có ngành sản ô tô điện của tập đoàn VinFast và bình điện ô tô cũng muốn chinh phục thị trường Mỹ. Thế nhưng đây cũng là những lĩnh vực dường như phải chịu cạnh tranh lớn tại Hoa Kỳ ?Eric Mottet : VinFast là một trường hợp thực sự thú vị. Là công ty thành viên thuộc tập đoàn Vingroup, nhà sản xuất ô tô VinFast đã bắt đầu giao xe ở bang California từ tháng 03/2023 và đang muốn tăng tốc ở thị trường Mỹ, bởi vì VinFast đã cam kết xây một nhà máy sản xuất và lắp ráp xe điện ở bang North Carolina kể từ năm 2025-2026 với sản lượng khoảng 150.000 xe điện mỗi năm.Chúng ta thấy rõ mục tiêu của VinFast là chiếm thị phần ngày càng lớn trong thị trường ô tô điện của Mỹ. Tôi xin nhắc lại là VinFast đã có mặt trước đó, nhưng phần nào bị buộc phải đầu tư trực tiếp trên lãnh thổ Hoa Kỳ, sau khi chính phủ Mỹ ban hành đạo luật giảm phát thải khí thải bằng cách đặt cược vào xe điện với khoản trợ cấp cho người tiêu dùng Mỹ mua ô tô điện sản xuất trên đất Mỹ. Đây là một khó khăn thêm vào những khó khăn mà chúng ta đã đề cập ở trên.Dĩ nhiên VinFast hy vọng cạnh tranh được với nhà sản xuất ô tô điện truyền thống Tesla. Vậy đâu là chiến lược phát triển của VinFast ? Họ đề xuất các mẫu mã rẻ hơn, thậm chí là rẻ hơn nhiều so với xe của Tesla, đặc biệt là VinFast không bán pin kèm với xe mà họ cho thuê. Khách hàng trả tiền thuê pin hàng tháng, nhờ đó mà giảm bớt hóa đơn cho khách hàng.VinFast bước vào thị trường Mỹ với nhiều tham vọng và với một chiến lược khác và giá thấp hơn Tesla, cũng như so với một số nhà sản xuất khác của Mỹ, thậm chí là với nhà sản xuất Trung Quốc có mặt trên đất Mỹ. Công ty Việt Nam muốn mở 125 điểm bán xe, sẽ khai trương trong thời gian tới. Hiện giờ VinFast mới chỉ bán một dòng xe và muốn mở thêm ba dòng xe khác. Sổ đặt hàng của họ cũng khá kín với hơn 10.000 đơn đặt hàng từ cá nhân.Khó khăn đối với VinFast là họ phải hợp tác với một đối tác tài chính để niêm yết trên thị trường chứng khoán vào tháng 08/2023. Giá cổ phiếu ban đầu là 22 đô la đã đạt đến đỉnh 93 đô la vào cuối tháng 8, nhưng sau đó không ngừng lao dốc và giao dịch quanh mức 6 đô la/cổ phiếu trong khoảng từ ngày 14-18/11. Chúng ta thấy ở đây một doanh nghiệp vững chắc ở Việt Nam, một tập đoàn mạnh muốn đầu tư vào Mỹ, nhưng việc chào sàn chứng khoán lại diễn ra không suôn sẻ lắm, việc xây dựng nhà máy cũng bị trì hoãn vì một số khó khăn hành chính.Dĩ nhiên cả Washington lẫn Hà Nội đều muốn thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam vào Hoa Kỳ nhưng vẫn còn rất, rất nhiều khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải vượt qua.RFI : Có một số ý kiến cho rằng VinFast đầu tư vào sản xuất ô tô điện ở Mỹ, ngoài để thu nhập công nghệ, còn nhằm xây dựng thương hiệu, quảng cáo cho uy tín của nhà sản xuất để hướng đến mục đích chính là bán ô tô ở Việt Nam và Đông Nam Á. Ông nhận định như nào về ý kiến này ? Eric Mottet : Ở châu Âu và Mỹ hiện có rất nhiều thay đổi. Nếu nhà sản xuất ô tô muốn được hưởng các khoản ưu đãi thuế từ chính phủ, họ phải sản xuất xe trực tiếp trên lãnh thổ. VinFast không có lựa chọn nào khác ngoài việc sản xuất ngay tại Hoa Kỳ. Liên Hiệp Châu Âu cũng có quy định tương tự.Liệu những công ty đó sẽ tiếp tục chiến lược để xe của họ tràn ngập thị trường Mỹ và Liên Âu không ? Hoặc cũng có thể họ lui về các thị trường châu Á, châu Phi hoặc Nam Mỹ hiện ít có chính sách bảo hộ hơn ? Đó cũng là một khả năng. Nhưng VinFast đã thông báo muốn hoạt động ở khoảng 40 nước trên thế giới.VinFast tham gia Hội chợ Ô tô ở Paris (Pháp), Cologne (Đức) và dường như cũng nhắm đến thị trường Hà Lan và một số nước khác. Song song đó, tập đoàn Việt Nam cũng sẽ mở cửa và xây dựng một nhà máy sản xuất xe ở Indonesia. Liệu đó chỉ thuần túy là khía cạnh thương mại hay còn có chủ trương gây dựng uy tín trong việc phân phối ô tô ở phương Tây để có một hình ảnh tốt hơn, để sau đó có thể bán xe ở Đông Nam Á và ở Việt Nam ? Điều đó cũng rất có thể xảy ra.Tuy nhiên, mức độ đầu tư của VinFast ở Hoa Kỳ là rất lớn, vì người ta nói đến tổng đầu tư 4 tỉ đô la. Vì thế, tôi cho rằng nếu VinFast thâm nhập thị trường Mỹ, đó là vì họ chú trọng bán xe ở đó, chứ không chỉ để bán ở Việt Nam. Chi phí đầu tư quá lớn, nhưng đổi lại VinFast tiếp cận được các công nghệ mà có thể họ chưa có ở Việt Nam. Đó là một lợi thế. Tuy nhiên, cần theo dõi chiến lược của VinFast, vì những thành công hay thất bại của họ chắc chắn sẽ giúp các doanh nghiệp lớn của Việt Nam muốn đầu tư ra nước ngoài hoặc vào Mỹ điều chỉnh chiến lược của họ. Tôi nghĩ là cần theo dõi thêm trường hợp VinFast.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn ông Eric Mottet, giảng viên Đại học Công Giáo Lille.
12/11/2023 • 11 minutes, 10 seconds
Cơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu
Với bờ biển dài đến 3.200 km, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tác động nhất của biến đổi khí hậu. Nhiệt độ tăng, nước biển dâng cao, sự gia tăng về tần suất và cường độ của các hiện tượng khí hậu cực đoan kết hợp với tăng trưởng dân số và đô thị hóa mạnh mẽ, đang làm gia tăng các rủi ro xói lở ven biển, ngập lụt đô thị và hạn hán trên cả nước. Tại hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc COP26 ở Glasgow, Việt Nam đã cam kết sẽ đạt đến trung hòa carbon vào năm 2050. Chính là để thực hiện mục tiêu đó, vào tháng 12/2022, Việt Nam đã ký hiệp định thiết lập Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng ( Just Energy Transition Partnership - JETP) với nhóm G7, Liên Hiệp Châu Âu, Na Uy và Đan Mạch. Hoạt động tại Việt Nam ngay từ năm 1993, Cơ quan Phát triển Pháp ( Agence Française de Développement - AFD ) trong nhiều năm qua vẫn hỗ trợ Việt Nam xây dựng chiến lược và triển khai nhiều dự án chống biến đổi khí hậu. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 29/11/2023, ông Hervé Conan, giám đốc AFD Việt Nam, trước hết đánh giá về mức độ tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam: Hervé Conan: Việt Nam rõ ràng là một trong năm quốc gia lục địa dễ bị tác động bởi biến đổi khí hậu nhất thế giới, một phần là do Việt Nam có một vùng bờ biển dài hơn 3.000 km, khiến các thành phố ven biển dễ hứng chịu các cơn bão nhiệt đới, mà tần suất và cường độ sẽ gia tăng cùng với biến đổi khí hậu. Với địa hình như vậy, Việt Nam có nguy cơ ngập lụt rất cao cùng với các thiên tai ngày càng nặng nề. Việt Nam cũng có hai vùng đồng bằng có độ cao gần bằng với mực nước biển, cho nên có nhiều nguy cơ bị ngập mặn, hiện tượng mà chúng ta đã thấy ở đồng bằng sông Cửu Long, cũng như đồng bằng sông Hồng, nơi mà lượng phù sa trong con sông đã giảm rất nhiều do các đập trên thượng nguồn. Do mực nước biển dâng cao, tình trạng ngập mặn ngày càng lấn sâu trong đất liền. Vì những lý do nói trên mà Việt Nam đã hứng chịu những tác động của biến đổi khí hậu rất mạnh. Chúng ta đã thấy là mỗi năm trôi qua, thiệt hại do biến đổi khí hậu đối với các thành phố càng tăng. Nói cách khác, biến đổi khí hậu đã là một thực tế ở Việt Nam, mà toàn thể người dân phải hứng chịu tuy chưa phải là hàng ngày, nhưng đã là thường xuyên. Trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, và nhất là trong việc thực hiện mục tiêu trung hòa carbon năm 2050, cơ quan AFD đang hỗ trợ Việt Nam như thế nào, ông Hervé Conan cho biết:Hervé Conan: Kể từ sau hội nghị COP21 ở Paris, tại Việt Nam, AFD được giao nhiệm vụ thuần túy về khí hậu, nhằm hỗ trợ Việt Nam, giống như với toàn bộ các nước đang trỗi dậy, thực hiện những cam kết mà họ đã đưa ra tại COP21, nhằm giúp Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng nhu cầu đối phó với các nguy cơ liên quan biến đổi khí hậu: lũ lụt, sạt lở bờ biển, bão nhiệt đới.Không chỉ là một quốc gia rất dễ bị tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam còn là một nước phát ra ngày càng nhiều khí thải CO2, vì có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có sản lượng năng lượng tăng đều đặn mỗi năm và hiện vẫn dựa rất nhiều vào nguồn điện than.Tại hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết đạt trung hòa carbon vào năm 2050, phi carbon hóa sản xuất năng lượng, dần dần thay thế các nhà máy điện than bằng các năng lượng tái tạo như điện gió, điện Mặt trời. Hiện giờ Việt Nam gặp khó khăn trong việc tiếp nhận các nguồn năng lượng tái tạo đó do sự yếu kém của mạng lưới truyền tải điện tại một quốc gia có địa hình trải dài như vậy. Hệ thống truyền tải điện qua sóng vô tuyến phải được tăng cường. AFD đang cùng Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN tài trợ một số dự án nhằm tăng cường mạng lưới điện: đường dây tải điện, trạm tải điện.Chúng tôi cũng tham gia vào dự án trạm thủy điện tích năng Bác Ái ( tỉnh Ninh Thuận ), sử dụng thiết bị công nghệ tích hợp bơm - tuabin đảo chiều và động cơ - máy phát đảo chiều, để bảo đảm cho sự cân đối của mạng lưới điện. Chúng tôi cũng làm việc với EVN về dự án mở rộng các nhà máy thủy điện. Ở Việt Nam hiện nay không còn chỗ để xây các nhà máy thủy điện lớn mới, cho nên điều chúng tôi làm đó là nâng cao giá trị của các đập thủy điện hiện có, qua việc tạo khả năng sản xuất mới cho các đập này. Nói chung là AFD làm việc rất chặt chẽ với Tập đoàn Điện lực Việt Nam với tư cách một đối tác trên thực địa để hỗ trợ họ trong tiến trình chuyển đổi năng lượng. Giai đoạn đầu tiên của tiến trình đó là trước hết giúp EVN củng cố các đường dây tải điện. Tiếp đến là phải hỗ trợ khu vực tư nhân đầu tư ồ ạt vào các nhà máy điện Mặt trời, nhà máy điện gió, trong đất liền hoặc ngoài khơi, những nguồn năng lượng mà Việt Nam có rất nhiều tiềm năng.Bị đe dọa nhiều nhất do tác động của biến đổi khí hậu chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long và nhất là các thành phố ven biển. Ông Hervé Conan, giám đốc cơ quan AFD ở Việt Nam, nói về những dự án để các địa phương đó đối phó với những nguy cơ, như xói lở bờ biển, ngập mặn…: Hervé Conan: Về vấn đề các bờ biển và đồng bằng sông Cửu Long, nên biết rằng đến khoảng năm 2100, từ 40% đến 50% đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ biến mất, tức là một phần diện tích lớn của Việt Nam có thể biến mất.Để vùng này thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng tôi tham gia vào việc chống ngập mặn với các dự án xây đập để ngăn nước mặn xâm nhập vào các cánh đồng. Chúng tôi cũng tham gia vào việc chống xói lở ở các bờ biển, cũng như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chúng tôi còn hỗ trợ toàn bộ các thành phố ven biển đang phải đối đầu với tình trạng xói lở, với các cơn bão nhiệt đới, đặc biệt là các tỉnh miền trung còn phải đối phó với nguy cơ ngập lụt, bằng những dự án quy hoạch, những biện pháp để giảm thiểu nguy cơ ngập lụt, để bảo vệ toàn bộ dân cư mà phần lớn thời gian trong năm vẫn phải sống với lũ lụt khi xảy ra những hiện tượng thời tiết cực đoan. Chúng ta biết là những hiện tượng thời tiết cực đoan này sẽ gia tăng trong những năm tới. Chúng tôi làm việc với từng tỉnh để hỗ trợ việc thiết lập các dự án quy hoạch tính đến nhiều nhất có thể được những yếu tố của thiên nhiên, tính việc quản lý các hồ chứa nước để giảm thiểu lượng nước đổ vào các thành phố khi mưa nhiều.Nói chung, chúng tôi vừa hỗ trợ về kỹ thuật cho các tỉnh, vừa đầu tư vào các cơ sở hạ tầng lớn của các thành phố. Chúng tôi cũng tham gia vào nghiên cứu với chương trình GEMMES, mà giai đoạn 2 sẽ được khởi động nhân hội nghị COP28, để hỗ trợ Việt Nam những công cụ giúp đưa ra các quyết định, giúp đề ra các chiến lược, chính sách thích hợp nhất trong bối cảnh phức tạp của Việt Nam: kinh tế tăng trưởng mạnh, dân số ngày càng đông, rất dễ bị tác động, chuyển đổi sinh thái phải đi kèm với an ninh năng lượng để bảo đảm đáp ứng nhu cầu về điện của một nền kinh tế tăng mạnh và của một dân số ngày càng đông.”Để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi năng lượng trong khuôn khổ Đối tác Chuyển đổi Năng Lượng Công Bằng ( JETP ), cơ quan AFD cũng đang giúp Việt Nam phát triển các nguồn năng lượng tái tạo và cũng hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng, nhất là mạng lưới truyền tải điện, theo lời ông Hervé Conan: Hervé Conan: Cộng đồng quốc tế đã cam kết trong khoảng từ 3 đến 5 năm tới sẽ cấp cho Việt Nam 15,5 tỷ đôla trong khuôn khổ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng. Riêng nước Pháp, thông qua cơ quan AFD, đã cam kết cấp ít nhất 500 triệu euro. Tài trợ của Pháp sẽ được cụ thể hóa qua các dự án lớn, đặc biệt là với EVN để một phần là tăng cường các đường dây truyền tải điện. Chúng tôi cũng làm việc với các ngân hàng công thiết lập các khoản tín dụng cho khu vực tư nhân để các doanh nghiệp này đóng góp vào tiến trình “xanh hóa” sản xuất năng lượng.Ngoài những đầu tư đó, chúng tôi cũng đóng góp những kỹ năng chuyên môn của Pháp về chuyển đổi năng lượng, để hỗ trợ cho chính phủ trong việc chọn lựa các giải pháp. Mặt khác, giai đoạn 2 của chương trình nghiên cứu GEMMES sẽ giúp cho việc mô hình hóa những tác động kinh tế xã hội của các chính sách mà Việt Nam sẽ chọn, để xác định những chính sách nào có ít tác động kinh tế xã hội nhất đối với người dân. Nói chung đó là sự hợp tác theo diện tương đối rộng nhằm hỗ trợ Việt Nam về nhiều mặt của tiến trình Chuyển đổi Năng lượng Công bằng để đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Đây là một thách đố rất lớn đối với Việt Nam, đòi hỏi một cuộc cách mạng mới, hoặc như một số người gọi, một “đổi mới” thứ hai, một thay đổi quan trọng cần thiết để có được một tăng trưởng xanh trong những năm tới như mong muốn của Việt Nam.” Nhưng một tài liệu nghiên cứu được đăng trên trang web của cơ quan AFD trong tháng 11 có đưa ra lời cảnh báo cho Việt Nam:"Về lâu dài, nền kinh tế có thể bị mắc kẹt vào bẫy quốc gia có thu nhập trung bình nếu chính quyền không giải quyết được hai vấn đề mang tính cơ cấu: một là năng suất và mặt khác, và hai, mạnh mẽ hơn, là cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Việc chống biến đổi khí hậu hiện nay dường như được thực hiện rất nghiêm túc trong quy hoạch của Việt Nam nhằm đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Tuy nhiên, nhiều chiến lược hiện nay phải được phối hợp một cách hài hòa để tránh những mâu thuẫn và trên hết phải được thực hiện bằng những hành động cụ thể. Thế mà, sự nặng nề của bộ máy quan liêu và của tiến trình ra quyết định theo chiều dọc vẫn còn là những hạn chế cản trở việc thực thi các dự án. Mặc dù có những cải tiến nhất định, nạn tham nhũng, tình trạng thiếu minh bạch và thống kê rời rạc tiếp tục tác động tiêu cực đến rủi ro quốc gia. Cơ quan công quyền sẽ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những thách thức này, thông qua việc gia tăng đầu tư công và cải thiện năng lực thực hiện."
12/6/2023 • 8 minutes, 34 seconds
Mối quan hệ truyền thống khiến Việt Nam khó xử trong xung đột Israel-Hamas
Israel là một trong những đối tác hợp tác thương mại, đầu tư và lao động quan trọng hàng đầu của Việt Nam ở Trung Đông. Khoảng 500 người Việt sinh sống và làm việc ở Israel. Là nước thứ 16 ký Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam, Israel còn là nguồn cung cấp vũ khí, trang thiết bị quốc phòng giúp Hà Nội đa dạng hóa đối tác. Tuy nhiên, cuộc chiến Israel-Hamas đẩy Việt Nam vào thế “tế nhị” trong khi cả Israel và Palestine đều có mối quan hệ lịch sử với Việt Nam. Ngày 24/10/2023, tại Liên Hiệp Quốc, đại sứ Đặng Hoàng Giang đã kêu gọi các bên ngừng bắn ngay lập tức, kiềm chế tối đa, tôn trọng luật nhân đạo quốc tế, bảo đảm an toàn và thả ngay lập tức cho tất cả các con tin, giảm thiểu thiệt hại đối với cơ sở hạ tầng dân sự thiết yếu. Đại sứ Giang cũng nhấn mạnh lập trường của Việt Nam ủng hộ giải pháp hai Nhà nước với Đông Jerusalem là thủ đô của Nhà nước Palestine và dựa trên các đường biên giới trước năm 1967.Trả lời RFI Tiếng Việt, giáo sư Pierre Journoud, chuyên về lịch sử Việt Nam, Đại học Paul Valery - Montpellier 3 (Pháp), nhận định những phát biểu của đại sứ Giang phần nào “có lợi cho Palestine”. Nhưng nhìn chung Việt Nam “có lập trường khá trung lập, tương tự với nhiều nước trên thế giới”. Và điều này "thể hiện mong muốn bảo vệ luật pháp quốc tế và phù hợp với lợi ích của Việt Nam". Vậy Hà Nội duy trì quan hệ với Israel và Palestine như thế nào ? Giáo sư Pierre Journoud trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ với Israel trong thập niên 1990. Mối quan hệ song phương tiến triển như thế nào để Israel hiện trở thành một trong những đối tác quan trọng của Hà Nội ? GS Pierre Journoud : Tôi muốn ngược dòng thời gian một chút để hiểu thêm bối cảnh. Trái với chúng ta hình dung, Việt Nam có mối quan hệ với Israel từ lâu. Với Israel, đó là mối quan hệ “bạn hữu” giữa chủ tịch Hồ Chí Minh và David Ben-Gourion, được coi là nhà lập quốc Israel.Năm 1946, Hồ Chí Minh được tiếp đón trọng thể ở Paris với tư cách chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đến tham dự Hội nghị Fontainebleau. Tại Paris, Hồ Chí Minh gặp David Ben-Gourion, người sau này trở thành thủ tướng Israel giai đoạn 1948-1954 và 1955-1963. Lúc đó, chủ tịch Hồ Chí Minh thậm chí còn đề xuất đón Chính phủ Do Thái lưu vong ở miền bắc Việt Nam nhưng Ben-Gourion từ chối. Năm 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua việc phân chia Palestine, cho phép thành lập Nhà nước Israel (14/05/1948) trên một phần lãnh thổ của Palestine. Nghị quyết này phần nào giống với đề xuất trước đó của Hồ Chí Minh.Đúng là mối quan hệ Việt Nam-Israel thực sự phát triển từ những năm 1990 vì trước đó bị Chiến tranh lạnh cản trở. Việt Nam theo Liên Xô, trong khi khối này bị Israel cáo buộc mang tư tưởng bài Do Thái. Trở ngại lớn đó chỉ được dỡ bỏ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và liên minh gần như duy nhất của Việt Nam với Liên Xô chấm dứt. Việt Nam và Israel thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1993, đánh dấu một trang mới trong quan hệ giữa hai nước. Năm 2005, hai nước tổ chức đối thoại chính trị thường niên ở cấp ngoại trưởng. Đại sứ quán Việt Nam được mở ở Tel-Aviv năm 2009, sau 16 năm Israel mở đại sứ quán ở Hà Nội.Nếu đúng như thông tin tôi được biết, chuyến công du của tổng thống Shimon Peres năm 2011 dường như đánh dấu một bước ngoặt khi ông thuyết phục các nhà lãnh đạo Việt Nam về những tiềm năng, cơ hội phát triển kinh tế lớn mà mối quan hệ song phương có thể mang lại. Đây là điểm khá thú vị bởi vì ngoài Singapore - một trong những đồng minh châu Á thân cận nhất của Israel - Hà Nội là một đối tác quan trọng của Israel cho dù Việt Nam vẫn chống Israel trong khoảng 138 lần bỏ phiếu ở Liên Hiệp Quốc liên quan đến Nhà nước Do Thái kể từ năm 2015.Có thể thấy một sự “thiếu kết nối”, mà tôi thấy khá thú vị trong một số bài phân tích chuyên sâu : Một Nhà nước - ở đây là Việt Nam - vì những lý do liên quan đến tình đoàn kết với Palestine chống thực dân, chống đế quốc có từ thời chiến tranh Việt Nam, vẫn bỏ phiếu để chống lại Israel và các vấn đề liên quan đến Israel-Palestine ở Liên Hiệp Quốc. Nhưng điểm này đi ngược lại với mối quan hệ chính trị, đặc biệt là kinh tế, được phát triển sâu sắc và năng động từ nhiều năm nay giữa Israel và Việt Nam.RFI : Có thể thấy quốc phòng là một trong những chương trình hợp tác nổi bật nhất giữa Việt Nam và Israel. Gần đây, hai nước ký Hiệp định Thương mại Tự do ngày 25/07/2023. Nhìn chung, hai nước phát triển hợp tác trong những lĩnh vực nào ?GS Pierre Journoud : Đúng, đó là những lĩnh vực mà hai nước phát triển mối quan hệ đặc biệt hơn cả, ngoài ra phải kể thêm nông nghiệp và du lịch. Nhìn chung, hợp tác song phương được phát triển trong mọi lĩnh vực, kể cả công nghệ sinh học.Về kinh doanh, rất nhiều công ty Israel đầu tư vào Việt Nam, nhất là trong các ngành nông nghiệp, dược phẩm, công nghệ. Israel cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo nghề, khoa học-công nghệ, quản lý nông nghiệp ở cấp địa phương. Ở chiều ngược lại, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển ở Israel. Tôi lấy ví dụ tập đoàn TH Group hợp tác với nhiều doanh nghiệp công nghệ Israel chuyên về sản xuất hệ thống vắt sữa tự động và hệ thống quản lý động vật.Thương mại song phương ngày càng gia tăng. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Israel đạt hơn 2 tỉ đô la, tăng 18% so với năm 2021, theo số liệu được báo chí trích dẫn. Thặng dư thương mại nghiêng hẳn về phía Việt Nam, Israel thâm hụt thương mại hơn 1 tỉ đô la. Israel chủ yếu xuất sang Việt Nam đồ điện tử, phân bón. Việt Nam xuất sang Israel hải sản, giầy dép, điện thoại di dộng. Israel là một trong 16 nước trên thế giới ký Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam. Về phần mình, Việt Nam muốn tăng cường cơ sở sản xuất của nền kinh tế do muốn tìm cách giảm bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.Lĩnh vực quốc phòng cũng là một mục tiêu khác trong hợp tác với Israel. Trung Quốc không gây lo ngại đến mức như Nga bởi vì kể từ khi xảy ra xung đột Nga-Ukraina, nhưng có lẽ trước cả lúc đó, Việt Nam đã tìm cách thoát khỏi các mối liên kết gần như độc quyền, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Nga là nhà cung cấp vũ khí và khí tài chính cho Việt Nam. Để đa dạng hóa nguồn cung, Việt Nam đã hướng đến Israel, đặc biệt là để bù đắp thiếu hụt kể từ khi xảy ra chiến tranh Ukraina, ví dụ mua các loại tên lửa địa đối không Spyder. Israel cũng bán cho Hà Nội các hệ thống giám sát và tình báo.Có thể thấy Israel - nằm trong số 10 nhà xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới - hướng tới Việt Nam, nước trở thành một trong những khách hàng chính của Nhà nước Do Thái từ nhiều năm qua. Đặc biệt là từ những năm 2010, Việt Nam trở thành một trong những thị trường đầu ra chính cho ngành công nghiệp quốc phòng Israel, với tổng trị giá hợp đồng lên tới 1,5 tỉ đô la trong suốt thập niên 2010. Đây là một chuyển biến mới, Israel trở thành một trong những đối tác bán vũ khí quan trọng cho Việt Nam. Điều này cũng đặt ra vấn đề cạnh tranh cho Pháp, nước cũng tìm chỗ đứng trong lĩnh vực này, cũng như với Hoa Kỳ, quốc gia cũng muốn ký nhiều hợp đồng quy mô hơn với Việt Nam, trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và tận dụng quan ngại của Hà Nội trong việc đa dạng hóa đối tác kinh tế và quân sự.RFI : Song song đó, chúng ta cũng thấy Việt Nam duy trì mối quan hệ tốt với Palestine, dù không phát triển hẳn như với Israel trong những năm gần đây !GS Pierre Journoud : Tôi cho là mối quan hệ Việt Nam-Palestine vẫn chặt chẽ về chính trị nhưng không vững mạnh về kinh tế như với Israel. Điều này dễ hiểu vì sự phát triển kinh tế giữa Israel và Palestine chênh lệch nhau.Việt Nam và Palestine thiết lập quan hệ chính trị ngay năm 1968 vào lúc đỉnh điểm chiến tranh Việt Nam với cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Tôi thấy là gần đây báo chí cũng nhắc đến sự kiện Tết Mậu Thân khi nói đến vụ tấn công bất ngờ của Hamas, cho dù sự liên tưởng đó là khiên cưỡng. Nhưng điều thú vị là trong kí ức tập thể, khi có một vụ tấn công hay phản công bất ngờ, người ta lập tức liên tưởng đến sự kiện Tết 1968, tiếp theo là cuộc phản công với sức hủy diệt mà mọi người dường như đã quên lãng. Cần phải nhắc lại rằng Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO), ra đời năm 1967 ngay sau Cuộc chiến Sáu ngày, đã đặt văn phòng ở Việt Nam năm 1976.Về phía Việt Nam, ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, đã trở thành một trong những Nhà nước đầu tiên công nhận Nhà nước Palestine và thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 19/11/1988, ngay sau khi Palestine tuyên bố độc lập. Kể từ đó, Hà Nội luôn ủng hộ Palestine trong tiến trình hội nhập trong vùng và quốc tế. Ví dụ, năm 2012, Việt Nam ủng hộ nghị quyết cho phép Palestine được trao tư cách quan sát viên tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, tiếp theo là ủng hộ đơn xin gia nhập nhiều tổ chức quốc tế khác của Palestine, như UNESCO, Interpol…Cũng trong thời điểm đó, cựu tổng thống Yasser Arafat công du Việt Nam khoảng 10 lần cùng với nhiều thành viên của tổ chức PLO, lần cuối cùng là vào năm 2001. Người kế nhiệm Mahmoud Abbas cũng công du Việt Nam ngày 24/05/2010. Theo bình luận của báo chí thời đó, hai bên nêu những triển vọng hợp tác trong nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Tôi không nghiên cứu chi tiết vấn đề này nhưng dường như những thỏa thuận đó đã không tạo được những trao đổi lớn giữa hai nước.Một điều khá thú vị là vào tháng 05/2023, Việt Nam và Palestine đã ký ở Hà Nội một Biên bản ghi nhớ (MOU) trong lĩnh vực phòng chống và kiểm tra tội pháp xuyên biên giới, nhân chuyến công du của bộ trưởng Nội Vụ Palestine Ziad Hab Al-Rih. Trong buổi làm việc với bộ trưởng Công An Tô Lâm, cả hai bày tỏ mong muốn tăng cường hợp tác an ninh và trao đổi trong lĩnh vực này. Nhưng nhìn chung, hợp tác giữa hai nước tiến triển chậm, rất khiêm tốn trong lĩnh vực thương mại. Có thể thấy phát biểu của mỗi bên đều kêu gọi thúc đẩy hợp tác là dấu hiệu cho thấy mối quan hệ không được phát triển mạnh, dù có tiềm năng.Mối quan hệ này làm tôi liên tưởng tới quan hệ giữa Việt Nam và Algérie. Đó là mối quan hệ đoàn kết lịch sử được hình thành từ cuộc đấu tranh chung, trước tiên là chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, sau đó là chống đế quốc Mỹ. Việt Nam thành “ngôi sao dẫn đường”, theo cách nói của nhà viết tiểu luận Frantz Fanon vì kháng chiến chống lại “cỗ xe ủi” Mỹ. Tất cả các tổ chức đấu tranh chống một lực lượng chiếm đóng thời đó, trong đó có Tổ Chức Giải Phóng Palestine của Yasser Arafat trong nửa sau thập niên 1960 - đầu những năm 1970, đều tỏ lòng ngưỡng mộ Việt Nam.Sau Chiến tranh Sáu ngày, tổ chức PLO đấu tranh chống Israel chiếm các vùng lãnh thổ không nằm trong phân định ban đầu được thông qua ở Liên Hiệp Quốc năm 1948. Điều thú vị là trong Cuộc chiến Sáu ngày này có sự tương đồng giữa chiến tranh Việt Nam và xung đột Israel-Ả Rập. Như tên gọi cho thấy cuộc chiến diễn ra ngắn ngày nhưng là một bước ngoặt. Đây cũng là một bước ngoặt đối với Pháp, vì tướng Charles de Gaulle, người lên án Mỹ năm 1966 can thiệp vào Việt Nam, đã chỉ trích Nhà nước Israel vi phạm luật pháp quốc tế khi chiếm đóng phi pháp các vùng đất của Palestine. Một chuyện khác có thể bị quên, đó là ngay sau khi Chiến tranh Sáu ngày kết thúc, một loạt đàm phán, hoàn toàn bí mật, do Pháp làm trung gian đã mở đường cho các cuộc đàm phán Mỹ-Việt tại Paris năm 1968. Có thể thấy sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử trở lại với thực tế hiện nay.Cuối cùng, tôi cho rằng có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng Israel-Palestine qua con đường đàm phán. Tôi nghĩ là Việt Nam có thể đóng một vai trò nào đó nhờ vào kinh nghiệm chiến tranh, cũng như kinh nghiệm đàm phán như tôi nêu ở trên. Với những kinh nghiệm đó, ngành ngoại giao Việt Nam có thể đóng một vai trò như họ vẫn mong muốn trong tiến trình hòa bình lâu dài ở Trung Đông, đặc biệt là trong cuộc xung đột Israel-Palestine hiện nay, được coi là kéo dài nhất và đau đớn nhất kể từ Thế Chiến II.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học Paul Valéry - Montpellier 3.
12/4/2023 • 11 minutes, 49 seconds
Nguyễn Văn Vĩnh dịch “Bệnh tưởng” của Molière mở đường khai sinh kịch nói Việt Nam
Năm 2022, đại văn hào Pháp Molière tròn 400 tuổi và cũng đánh dấu 102 năm vở kịch nói đầu tiên được diễn tại Việt Nam. Vở hài kịch Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) của Molière, được ông Nguyễn Văn Vĩnh (15/06/1882 - 02/05/1936) dịch trước đó, đã được diễn tại Hà Nội ngày 25/04/1920, mở đường hình thành nghệ thuật kịch nói ở Việt Nam. Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ trở thành công cụ nhanh nhất và hiệu quả nhất để du nhập những kiến thức mới vào Việt Nam và Nguyễn Văn Vĩnh ý thức rõ được điều này. Cùng với nhiều học giả đương thời (Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố trong “Tứ Hổ Tràng An”), Nguyễn Văn Vĩnh tìm thấy trong văn học Pháp nguồn khai thác vô hạn để làm giầu văn học Việt Nam, cũng như để khuyến khích người dân học quốc ngữ, mà ông từng khẳng định : “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ !”Chọn hài kịch để dễ phổ biến chữ quốc ngữ Sau thời gian đầu chọn những tác phẩm kinh điển của Pháp để dịch sang tiếng Việt, như những tiểu luận của Rousseau (Du contrat social - Bàn về khế-ước xã-hội), Montesquieu (L’Esprit des Lois - Vạn-pháp tinh-lý) hoặc Helvétius (Le Traité de l’esprit), Nguyễn Văn Vĩnh hiểu ra rằng những tác phẩm đó quá cao siêu, vượt trình độ của phần đông dân chúng. Ông chuyển hướng dịch những tác phẩm văn học bình dân, dễ hiểu hơn. Và táo bạo hơn, Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra ý tưởng “diễn kịch”, một cách để khẳng định khả năng diễn tả của chữ quốc ngữ trong những loại hình nghệ thuật mới.Bệnh tưởng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, đã được trình diễn ngày 25/04/1920 tại Nhà hát thành phố (Nhà hát lớn Hà Nội), nhân kỷ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA). Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc (1), giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á (IrAsia), đại học Aix-Marseille, phân tích ý nghĩa sự kiện này :“Vở kịch đó có cái hay ở điểm đây là lần đầu tiên một vở kịch, gọi là “thoại kịch”, có nghĩa là kịch nói, chứ không phải hát, được trình diễn. Người diễn mặc trang phục theo kiểu châu Âu, đi lại, nói năng như người bình thường. Ngoài ra, những người diễn không phải là diễn viên chuyên nghiệp, vì lúc đó đâu có diễn viên chuyên nghiệp, cho nên các vai nam đều do các hành viên của Hội Khai-trí tiến-đức diễn. Còn hai vai nữ là mời hai diễn viên ở một đoàn tuồng ở Hà Nội tham gia. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh là người đóng vai ông lang ế, tức là ông bác sĩ ở trong vở kịch đó”.Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) là một trong bốn tác phẩm của Molière được Nguyễn Văn Vĩnh dịch, cùng với Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme), Người biển lận (L’Avare), Giả đạo đức (Tartuffe) và được đăng trên Đông-Dương tạp-chí. Sau đó, bốn tác phẩm này được in trong “Série A” của bộ sưu tập Phổ-thông giáo-khoa-thư xã, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1916, dưới sự chỉ đạo của François-Henri Schneider để cổ vũ giáo dục (2) và sau này, trong bộ sưu tập Danh văn nước Pháp dịch nôm, phụ bản của báo Trung-Bắc tân-văn trong những năm 1920-1921 tại Hà Nội.Là một người đam mê kịch Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị những tác phẩm của Molière lôi cuốn vì chúng vừa hài hước vừa mang ý nghĩa dạy dỗ. Lời thoại dễ hiểu, dễ nghe là phương tiện hiệu quả để truyền bá chữ quốc ngữ, khác với lựa chọn lúc đó của học giả Phạm Quỳnh. Phó giáo sư Phương Ngọc giải thích tiếp :“Nguyễn Văn Vĩnh lựa chọn hài kịch, nhất là những vở của Molière là những vở nói về xã hội một cách phê phán, có cái nhìn phê phán, tức là dùng tiếng cười để nói lên những cái xấu, những cái cần phải sửa đổi của xã hội. Còn Phạm Quỳnh không dịch hài kịch. Ông dịch bi kịch, như Le Cid (Lôi-xích) của Corneille chẳng hạn. Theo Phạm Quỳnh, dịch kịch hoặc tiểu thuyết nói chung là phải dịch những tác phẩm có những ý tưởng cao đẹp về Tổ quốc, về yêu nước.Nguyễn Văn Vĩnh thì rất là khác. Ông có tinh thần phê phán xã hội và dùng cái cười để giúp người xem tự phân tích được những cái xấu trong xã hội. Có lẽ hai lựa chọn đó cũng liên quan đến hai cá tính khác nhau bởi vì Nguyễn Văn Vĩnh có rất nhiều bài báo phê phán xã hội Việt Nam thời đó, những cái gọi là “hủ tục”. Về mặt đó, Nguyễn Văn Vĩnh là người rất gần với tư tưởng duy tân. Trong khi đó, Phạm Quỳnh là người hay nói tới “tồn cổ”, tới “quốc hồn, quốc túy”.Kể cả trong cách ăn mặc chẳng hạn, Nguyễn Văn Vĩnh phải nói là người rất là trẻ, rất hiện đại, rất là tân học, mặc com-lê, thắt cà vạt. Còn Phạm Quỳnh mặc áo dài theo kiểu truyền thống. Có thể đó là một cách giải thích. Còn các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về kịch nói có thể đưa ra những phân tích, những giải thích khác, thì ý đó tôi không được biết rõ lắm”.Đưa cái mới để đập tan cổ hủNguyễn Văn Vĩnh đã được tiếp xúc với nghệ thuật kịch nói ngày từ năm 1906, trong chuyến sang Marseille, miền nam Pháp, dự Triển lãm Thuộc địa (Exposition coloniale de Marseille). Trong thư đề ngày 27/06/1906 gửi cho người bạn Phạm Duy Tốn, ông viết : “Đêm qua, Đ. T. Kim và tôi đi xem diễn kịch Le Cid ở nhà hát lớn, đi xem không mất tiền, vì có ông Vierge mời.Sướng quá, nhất là tại lần đầu tôi được đi xem diễn một tích hát cổ điển mà chúng ta chỉ mới được đọc thôi. Cách họ ngâm thơ làm cho ta hiểu thêm cái hay của văn chương, cái cao thượng của tình cảm thường thường người ta không được thấy rõ lắm trong khi đọc sách…” (3)Thất vọng vì hai người bạn đồng hành Đ. T. uể oải, thờ ơ trong buổi diễn nhưng vẫn vờ tán dương, Nguyễn Văn Vĩnh phải thốt lên trong thư : “Người mình bướng quá. Muốn làm cho họ thấy sự tiến bộ, thật là khó quá. Chúng ta không bao giờ chịu nhận chúng ta thua kém các dân tộc khác. Vả lại, nhận tội lỗi của mình, có phải là một sự nhục nhã gì cho cam ! Trong cõi đời này, ai lại chẳng có tính xấu ?... Đối với họ, đem giấu những nết xấu của mình đi, rồi lấy đó làm tính tốt, thế là yêu nước, thế là làm vẻ vang cho nòi giống đó ! ...Muốn có một lớp người khá, muốn có một lớp người hướng dẫn quốc dân vào con đường khoa học, ta phải mong ở lớp người đến sau, ở những bọn thiếu niên bây giờ. Óc họ chưa bị những thành kiến cổ hủ đồi bại ăn sâu đục thủng. Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phải nhòa trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất…”.Sau 14 năm trăn trở, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được mong muốn. Ông đưa kịch nói vào Việt Nam. Theo ông, đây là một “loại hình nghệ thuật mượn nhiều nghệ thuật khác”, như sử dụng văn học để đối thoại, cần âm nhạc và múa để diễn tả những cấp độ khác nhau và hội họa, điêu khắc để trang trí. Nhưng điều lớn hơn cả, đó là “mục tiêu của nghệ thuật này là cho thấy vẻ đẹp của bản chất con người và thái độ của họ trong cộng đồng” (4). Phó giáo sư Phương Ngọc phân tích tiếp ý nghĩa của buổi diễn kịch nói đầu tiên :“Cần phải nói là vở kịch đó được diễn ở Nhà hát thành phố, tức là địa điểm văn hóa quan trọng nhất, đẹp nhất tại Hà Nội và tại xứ Đông Dương. Vở kịch Bệnh tưởng, khi được biểu diễn ngày 25/04/1920 là vào dịp, cũng rất đặc biệt, là để kỉ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), tức là hội gồm những người có tên có tuổi trong xã hội thời đó, do Phạm Quỳnh, lúc đó là chủ nhiệm báo Nam Phong, đứng ra làm chủ tịch hội.Vì thế, sự kiện biểu diễn một vở kịch nước ngoài, dưới một hình thức rất mới, tức là nói chứ không phải là hát, do những người không chuyên biểu diễn, thì đó là một sự kiện văn hóa rất có tiếng vang và rất là mới”.Những lời bình luận tích cực nhanh chóng xuất hiện trên báo chí. Trong bài “Molière chez les Annamites” trên tạp chí La Revue Indochinoise số 5-6 ra tháng 05-06/1920, tác giả M. G. Dufresne “cảm thấy một sức hấp dẫn mới, không có được trong nguyên bản tiếng Pháp - có lẽ không lớn hơn, nhưng với một chất lượng mới” và hoan nghênh sự lựa chọn xác đáng của ông Nguyễn Văn Vĩnh : “Dịch giả hiểu rằng Molière là nguồn kịch Pháp thực thụ, và đối với các nghệ sĩ, hài kịch có nhiều khả năng thành công hơn bị kịch”.Mở đường phát triển cho kịch nói Việt NamÔng Phạm Quỳnh, chủ bút Nam-Phong tạp-chí, coi ngày 25/04/1920 là một ngày không thể quên trong lịch sử của Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), trong lịch sử sân khấu và văn học Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) đã dành 19 trang trong số 35 của Nam-Phong tạp-chí để giới thiệu “Lịch sử nghề diễn-kịch ở nước Pháp - Bàn về hí-kịch của ông Molière”. Trong lời nói đầu, Phạm Quỳnh viết : “Vả nước ta bây giờ đương giữa lúc muốn sửa-đổi nghề tuồng trong nước, cần phải nên biết lịch-sử và sự-nghiệp các bậc soạn kịch đại-danh như ông Molière”.Nghệ thuật kịch Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, theo phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc :“Buổi trình diễn vở kịch Bệnh tưởng đó có ảnh hưởng rất tới đời sống văn hóa, văn học, cũng như là nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung. Tại như này : Rõ ràng là phải có vở kịch được biểu diễn tại Nhà hát thành phố, hiện giờ là Nhà hát lớn, năm 1920 thì sau đó, hơn một năm rưỡi sau, vào ngày 22/10/1921, mới có vở kịch Chén thuốc độc do một tác giả người Việt Nam, Vũ Đình Long, viết bằng tiếng Việt, về một đề tài xã hội lúc đó.Chén thuốc độc, trước khi được trình diễn, đã được đăng trên tạp chí Hữu-Thanh, là tạp chí của Hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội, lúc đó do nhà thơ, nhà văn Tản Đà làm chủ nhiệm. Vở kịch Chén thuốc độc được dàn dựng và trình diễn cũng tại Nhà hát thành phố. Sự kiện sân khấu đó cũng là để kỉ niệm một năm ngày thành lập hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội. Cũng như trước đó năm 1920, vở kịch Chén thuốc độc có tiếng vang rất lớn và sau đó, có thể nói là kịch nói ở Việt Nam đã được chính thức khai sinh.Có thể nói ngày khai sinh là năm 1920 khi diễn vở kịch Bệnh tưởng hoặc cũng có thể nói là chính thức khai sinh năm 1921 với vở kịch Việt Nam. Theo tôi, cả hai sự kiện đó đều là sự kiện khai sinh ra nghệ thuật sân khấu kịch nói ở Việt Nam”.*****(1) Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc là dịch giả hai tác phẩm La Belle d'Occident của Huỳnh Thị Bảo Hòa và Le Petit Rêve của Tản Đà, do NXB Decrescenzo phát hành tại Pháp. (2) Corinne Flicker và Nguyễn Phương Ngọc (chủ biên), Théâtres français et vietnamien - Un siècle d’échange (1900-2008) (Kịch Pháp và Việt Nam, một thế kỷ giao lưu (1900-2008), NXB Presses universitaires de Provence, 2014.Nhiều bản dịch khác của Nguyễn Văn Vĩnh ban đầu được đăng trên Đông-Dương tạp-chí, sau đó được xuất bản trong bộ sưu tập này, như Thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện), Truyện trẻ con của Perrault tiên-sanh diễn nôm (Les Contes de Perrault), Chàng Gil Blas ở xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane của Lesage), Qui-li-ve du ký (Les Voyages de Gulliver, J. Swift), Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les Avantures de Télémaque của Fénelon).Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch nhiều tác phẩm khác : Ba người lính ngự lâm (Les Trois Mousquetaires, Alenxandre Dumas), Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut của cha Antoine-François Prévost), Tấm da lừa (La Peau de chagrin, Balzac), Những người khốn khổ (Les Misérables, Victor Hugo), Rabelais (Emile Vayrac), Le Parfum des humanités (Emile Vayrac)… Truyện các danh nhân Hi Lạp La Mã dồi nhau (Les Vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome của Plutarque), Tục-Ca-Lệ (Turcaret, Alain-René Lesage)(3) Vũ Bằng, “Tưởng nhớ một bực thầy : Quan-Thành Nguyễn Văn Vĩnh”, Tạp chí Văn học, số 111, Saigon, 8-31 (tra cứu ngày 06/02/2022).(4) Nguyễn Văn Vĩnh, “Nghề diễn-kịch bên Đại Pháp”, Đông-Dương tạp-chí, số 18 (bản mới).(Tạp chí phát lần đầu ngày 06/12/2022)
12/1/2023 • 10 minutes, 57 seconds
Việt Nam, Úc trên đường trở thành "đối tác chiến lược toàn diện"
Theo báo chí chính thức của Việt Nam, bên lề Thượng đỉnh APEC tại San Francisco, Hoa Kỳ, ngày 17/11/2023, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã gặp thủ tướng Úc Anthony Albanese. Trong cuộc gặp này, thủ tướng Úc đã bày tỏ mong muốn “quan hệ với Việt Nam tiếp tục phát triển lên tầm cao mới, tương xứng với tiềm năng của hai bên”. Ông Albanese đã tuyên bố như trên trong bối cảnh năm nay là kỷ niệm 50 năm thiết lập bang giao giữa Canberra và Hà Nội và cũng là năm được coi là “chín mùi” để hai nước nâng quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”."Đối tác chiến lược toàn diện" là cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp quan hệ ngoại giao của Việt Nam, một mối quan hệ mà Việt Nam cho đến nay mới chỉ thiết lập với 5 quốc gia Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và gần đây nhất, vào tháng 9, là với Hoa Kỳ. Riêng Úc chỉ mới là đối tác chiến lược của Việt Nam kể từ năm 2018, trong khi Canberra đã thiết lập bang giao với Hà Nội từ cách đây 50 năm, tức ngay cả trước khi kết thúc chiến tranh Việt Nam.Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Sydney ngày 23/11/2023, nhà báo Lưu Tường Quang trước hết nhắc lại lịch sử bang giao giữa Úc với Việt Nam: “Bang giao song phương giữa hai nước đã bắt đầu từ năm 1973. Sau khi hiệp định Paris được ký kết vào tháng 1/1973, chính phủ Úc lúc đó dưới quyền của thủ tướng Gough Whitlam đã công nhận chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đồng thời vẫn duy trì bang giao với Việt Nam Cộng Hòa.Trong thời gian Việt Nam bị Hoa Kỳ cấm vận, ai đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi sự cô lập? Chính là nước Úc. Chính ngoại trưởng Bill Haydon đầu thập niên 1980 đã vận động để Việt Nam bớt bị cô lập và có thể gia nhập lại môi trường bang giao thế giới. Cũng vì thế mà vào năm 1984, do lời mời của ngoại trưởng Bill Haydon mà ông Nguyễn Cơ Thạch đã là ngoại trưởng đầu tiên của CHXHCN Việt Nam thăm một quốc gia Tây phương tại Canberra.Vào năm 1999, Úc là một trong những quốc gia phương Tây đầu tiên thương thuyết và chấp nhận với Việt Nam trao đổi tùy viên quân lực giữa Canberra và Hà Nội.” Trong bài viết đăng trên trang The Diplomat của Nhật ngày 01/11/2023, tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, nghiên cứu viên của Trung tâm Tương lai chính sách, Đại học Queensland (Úc) nhắc lại:“Ý tưởng nâng cấp quan hệ lần đầu tiên được ngoại trưởng Úc Marise Payne đề xuất với đồng nhiệm Việt Nam Phạm Bình Minh vào tháng 11/2020. Sau đó, ý tưởng này đã được cựu thủ tướng Scott Morrison hai lần nêu ra trong các cuộc điện đàm riêng với thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Minh Chính vào tháng 1 và tháng 5/ 2021. Với sự thay đổi chính phủ ở Úc sau cuộc bầu cử vào tháng 5/2022, cuộc thảo luận về việc nâng cấp đã bị đình trệ cho đến chuyến thăm của chủ tịch Quốc Hội Việt Nam Vương Đình Huệ tới Canberra vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12/2022. Trong các cuộc gặp với các thành viên của cả hai cơ quan hành pháp và lập pháp của Úc, ông Vương Đình Huệ đã đạt được sự đồng thuận với họ về việc nâng cấp quan hệ song phương. Hai bên dự kiến việc nâng cấp sẽ diễn ra vào dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong năm nay." Nhà báo Lưu Tường Quang cũng tin rằng rất có khả năng là trong vài tháng tới, quan hệ giữa Úc với Việt Nam sẽ được nâng cấp lên đến mức cao nhất:“Không những tôi tin tưởng bang giao song phương giữa CHXHCN Việt Nam và Úc sẽ được nâng lên mức cao nhất trong cuối năm nay, hoặc đầu năm tới, mà còn có những dấu hiệu rất cụ thể cho thấy việc này có nhiều khả năng xảy ra, căn cứ vào các cuộc thăm viếng của các quan chức cao cấp của Úc đến Việt Nam, cũng như cuộc gặp mới đây nhất giữa chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và thủ tướng Anthony Albanese nhân thượng đỉnh APEC tại San Francisco.Với sự thăm viếng dồn dập từ phía Úc sang Việt Nam mà Việt Nam chưa đáp lễ ở mức tương đương, tôi nghĩ đây là thời điểm tốt để từ đây đến cuối năm, một trong ba vị trong “tứ trụ triều đình” có thể sang thăm Úc và có thể một trong những mục tiêu sẽ là nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược đã có từ 2018 lên mức đối tác chiến lược toàn diện trong năm 2023 hoặc đầu năm 2024. Cuối tháng 11 đầu tháng 12/2022, chính Việt Nam đã cử chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ sang thăm Úc như là sự kiện khởi đầu kỷ niệm 50 năm bang giao. Tuy nhiên, từ đó cho đến nay chúng ta không thấy các nhân vật quan trọng trong nhóm tứ trụ có mặt tại Úc. Trong số 3 vị còn lại, tất nhiên là tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ không thể thăm Úc, do ông đã không thể đi thăm Hoa Kỳ vì lý do sức khỏe, mặc dù trong lịch sử bang giao Úc-Việt Nam, đã từng có 2 tổng bí thư thăm nước Úc: ông Nông Đức Mạnh vào năm 2009 và trước đó là ông Đỗ Mười năm 1995 vào thời thủ tướng Paul Keating. Tôi thấy thủ tướng Albanese đã thăm Hà Nội hồi tháng 6/2023 và đã gặp gỡ và thảo luận với thủ tướng Phạm Minh Chính, thì tôi nghĩ là để đáp lễ, nhân vật có thể đến thăm Úc đây đến cuối năm hoặc đầu năm tới là ông Phạm Minh Chính chăng? Một trong hai người có thể đến Úc, đó là ông Phạm Minh Chính và ông Võ Văn Thưởng.” Trong bài viết đăng trên The Diplomat ngày 01/11, nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Hải đã nêu ra ba lựa chọn mà Việt Nam và Úc có thể cân nhắc nếu mong muốn nâng cấp mối quan hệ trong năm nay. Phương án đầu tiên là chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và thủ tướng Albanese sẽ đưa ra thông báo khi gặp nhau bên lề Thượng đỉnh APEC ở San Francisco ( Nhưng việc này đã không diễn ra ). Lựa chọn thứ hai, mặc dù hơi kém, là việc nâng cấp diễn ra thông qua cuộc gặp trực tuyến giữa hai thủ tướng, như Việt Nam đã làm với New Zealand vào năm 2020. Lựa chọn thứ ba và lý tưởng nhất sẽ là chuyến thăm ngắn ngày của thủ tướng Phạm Minh Chính tới Canberra nhưng tập trung vào việc nâng cấp trước khi năm 2023 kết thúc, giống như chuyến thăm ngắn ngày của tổng thống Joe Biden tới Việt Nam vào tháng 9. Theo đánh giá của nhà báo Lưu Tường Quang, việc nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện sẽ có lợi cho cả hai nước Úc và Việt Nam :“Trong các cuộc gặp gỡ, chẳng hạn như giữa thủ tướng Albanese với thủ tướng Phạm Minh Chính nhân chuyến thăm chính thức ngày 07/06/2023, hai bên đã nêu lên sự hợp tác ngày càng tốt đẹp giữa Úc và CHXHCN Việt Nam, không những về đầu tư thương mại, chống biến đổi khí hậu, mà nước Úc còn giúp cho Việt Nam về phát triển qua các viện trợ phát triển chính thức ODA. Nhưng cả hai bên cũng đều nói là có thể tăng cường quan hệ về an ninh quốc phòng. Tôi nghĩ Việt Nam và Úc có một mẫu số chung là vì trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, Úc ủng hộ lập trường của Việt Nam: Biển Đông phải được giữ nguyên trạng, không được quân sự hóa và phải được tự do lưu thông hàng hải, hàng không. Nước Úc coi sự đe dọa của Trung Quốc ở Biển Đông như là một sự đe dọa đối với chính nước Úc. Sự hợp tác về quốc phòng rất là đa dạng. Việt Nam có khả năng tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình trên thế giới, như tại Nam Sudan, phần lớn là do được Úc huấn luyện, không chỉ về Anh ngữ, mà cả về cách hành xử khi tham gia các chiến dịch bảo vệ hòa bình. Chính các phi cơ vận tải của Úc đã chở các binh lính Việt Nam sang Nam Sudan. Hợp tác quốc phòng giữa hai nước ngày càng khắng khít. Tại các học viện quân sự của Úc, hiện có nhiều sinh viên sĩ quan của Việt Nam đang theo học.Vì những lý do đó mà tôi nghĩ là việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược lên chiến lược toàn diện sẽ có lợi cho cả hai bên. Tôi nghĩ có hai lĩnh vực mà Úc có thể gia tăng trợ giúp Việt Nam về an ninh quốc phòng. Thứ nhất là huấn luyện đơn vị quân đội Việt Nam tham gia bảo vệ hòa bình theo chương trình của Liên Hiệp Quốc. Thứ hai là Úc chia sẻ quan điểm của Việt Nam về tranh chấp Biển Đông, coi vấn đề tự do hàng hải và hàng không là quan trọng, cũng như Úc không chấp nhận việc Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông. Thứ ba là trong các cuộc gặp gỡ giữa ông Albanese và ông Phạm Minh Chính cũng như trong các cuộc gặp song phương giữa ngoại trưởng Penny Wong với ngoại trưởng Bùi Thanh Sơn, hai bên đã cam kết sẽ tiếp tục thảo luận ở cấp cao mỗi năm, đồng thời hỗ trợ lẫn nhau tại các diễn đàn khu vực và thế giới. Những từ ngữ mà tôi cho là rất khích lệ: Cả hai bên đều coi đối tác của mình là quan trọng.Về phía nước Úc, ông Albanese đã nói rõ với ông Phạm Minh Chính khi thăm Việt Nam hồi tháng 6 là nước Úc coi Việt Nam là đối tác hàng đầu và ngay trong cuộc gặp bên lề thượng đỉnh APEC, ông Albanese cũng đã nói với chủ tịch nước Võ Văn Thưởng rằng nước Úc coi Việt Nam là đối tác chiến lược hàng đầu trên thế giới. Thật sự thì nước Úc không phải là một đại cường, mà chỉ là một quốc gia phát triển bậc trung, cho nên sự gần gũi giữa Úc với Việt Nam dễ dàng được thực hiện."
11/27/2023 • 9 minutes, 27 seconds
Ấn vàng triều Minh Mạng mở đường “hồi hương” cổ vật Việt ở nước ngoài
Ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” dự kiến trở về cố hương tháng 11/2023 sau hơn nửa thế kỷ chu du trên đất Pháp. Theo thông báo của cục trưởng Cục Di sản Văn hóa Lê Thị Thu Hiền trong cuộc họp thường kỳ quý 3 của bộ Văn Hóa - Thể Thao & Du Lịch, “dự kiến cuối tháng 10 tất cả thủ tục pháp lý liên quan tới ấn vàng sẽ hoàn tất để có thể giao lại cho chúng ta”, các cơ quan liên quan ở Việt Nam “làm các thủ tục pháp lý để tiến hành đưa ấn vàng về nước”. Số phận của ấn vàng cũng lênh đênh như chủ sở hữu quá cố - cựu hoàng Bảo Đại - đã thu hút sự mọi chú ý khi ấn vàng được giao độc quyền cho nhà đấu giá Pháp Millon vì gia đình chủ sở hữu không nhận được hồi âm về đề xuất thỏa thuận riêng với phía Việt Nam trước đó.Ấn vàng được đúc năm 1823 thời vua Minh Mạng (1820-1841), nằm trong lô số 101 “Art du Vietnam” (Nghệ thuật của Việt Nam), được nhà đấu giá Millon thông báo trên trang web ngày 19/10/2022. Chưa đầy hai tuần sau, phía Việt Nam đã đàm phán thành công để hãng Millon tạm hoãn đấu giá và ngay cùng ngày 31/10, hãng ra thông cáo đưa ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” ra khỏi danh mục cổ vật đấu giá trong ngày.Đại sứ quán Việt Nam tại Paris và đại sứ quán Pháp tại Hà Nội đã hỗ trợ tích cực quá trình đàm phán này. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 07/04/2023, đại sứ Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery cho biết :“Chúng tôi đã rất chú ý theo dõi quãng thời gian đàm phán hồi hương ấn vàng của vua Minh Mạng mà cựu hoàng Bảo Đại sở hữu. May là quãng thời gian này rất ngắn. Chúng tôi được thông báo về việc này rất sớm. Lúc đó, chúng tôi đã báo ngay cho Paris về thực chất của vấn đề, tiếp theo là kết nối chính quyền Việt Nam với nhà bán đấu giá để bên muốn có được ấn vàng có thể thỏa thuận mua và tránh bán công khai. Phải nhắc lại là đây là một cổ vật quý giá, đầy ý nghĩa lịch sử xúc động”.Biểu tượng của một chế độ - minh chứng của một giai đoạn lịch sử Việt NamTheo sách Đại Nam thực lục của Quốc Sử quán triều Nguyễn, được trang Facebook Thông tin Chính phủ trích dẫn, ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” “được đúc vào ngày Giáp Thìn, mùng 4 tháng Hai năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823). Ấn có nuốm (quai) làm rồng cuốn 2 tầng, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân, bằng vàng mười tuổi, nặng 180 lạng 9 đồng 2 phân (khoảng 10,78 kg)”.Nhưng ấn vàng Minh Mạng còn mang nhiều giá trị khác, theo giải thích của nhà báo - nhà nghiên cứu lịch sử Dương Trung Quốc khi trả lời RFI Tiếng Việt :“Ngoài giá trị hiện kim của ấn vàng là một khối vàng ròng như vậy, có trọng lượng cụ thể như thế, chiếc ấn còn là một bằng chứng lịch sử gắn với triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam tồn tại hơn một thế kỷ, tính từ năm 1802 cho đến năm 1945. Đồng thời, bản thân chiếc ấn cũng gắn với một sự kiện lịch sử được coi là trọng đại. Đó là khi chế độ phong kiến kết thúc sứ mệnh của mình ở Việt Nam với việc hoàng đế Bảo Đại cáo chung và trao lại cho chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chiếc ấn và biểu hiện cho sự chấm dứt quyền lực của vương triều. Tiếp theo còn có những câu chuyện có thể nói là rất ly kỳ sau này, khi số phận của ấn trôi nổi như thế cho đến việc đem ra đấu giá, rồi chuyện thương thảo của phía Việt Nam để đến ngày hôm nay được coi như là đưa trở về cố quốc. Tôi cho điều đó tạo nên những giá trị cho chiếc ấn đó. Vì thế, tôi nghĩ nó không chỉ là một chiếc ấn vàng, không chỉ là gắn liền với một chế độ, mà gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam”.Biểu tượng của triều Nguyễn trôi dạt sang PhápKim bảo tỷ của hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) được nhà đấu giá Millon giới thiệu trên trang web là có đế đúp vuông chồng lên nhau, hình rồng cuộn tròn, có 5 móng bám chặt, phần đầu nhô lên có khắc chữ 王 (Vương), đuôi dựng thẳng phía sau đầu, thân cuốn theo hình xoắn ốc với một phần nhô lên để tô điểm cho thân đầy vảy, đầu tua tủa sừng để lộ mõm sư tử và răng nanh. Bốn chân bám chắc, mỗi chân có 5 móng. Dưới đế khắc 4 chữ Hán : 皇帝之寶 (Hoàng Đế chi bảo).Trong cuốn hồi ký Le Dragon d’Annam (Con rồng An Nam, NXB Plon, 1980, tr. 43), cựu hoàng Bảo Đại viết : “Thời Minh Mạng đánh dấu đỉnh cao của nhà Nguyễn. Đó là thời kỳ thịnh vượng nhất của đất nước. Tiếp nối công việc của cha, vua Minh Mạng cho đắp đê, làm đường, xây cầu, đào kênh, chỉnh trang thành thị, phát triển hải cảng. Ngoài ra, hoàng đế hoàn thành bộ luật do vua Gia Long thực hiện và đặt ra các quy tắc về nghi thức, từ đó trở đi, sẽ chi phối triều đình và tất cả những gì liên quan đến công việc tổ chức hoàng gia. Trong tất cả những công việc đó, vua Minh Mạng cho thấy trí tuệ tuyệt vời”.Kim bửu tỷ, Kim bảo tỷ hay Kim tỷ là các ấn hiếm nhất, quan trọng nhất và được làm bằng vàng ròng. Dưới thời Minh Mạng, khoảng 15 ấn bằng ngọc và bằng vàng được đúc, trong đó có ấn "Hoàng đế chi bảo". Sau đó, ấn vàng này trở thành biểu tượng của sự chuyển giao quyền lực. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết :“Người ta đều biết rằng chiếc ấn này có thể đại diện cho triều đại phong kiến Việt Nam cuối cùng là triều Nguyễn và đã được đích thân hoàng đế Bảo Đại giao lại cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Huế ngày 30/08/1945. Sau đó, ấn vàng được giới thiệu rộng rãi với công chúng trong ngày Lễ Độc lập 02/09/1945.Người ta cũng được biết rằng chiếc ấn này đã bị thất lạc trong quá trình chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ vào cuối tháng 12/1946. Có người nói rằng bởi vì các nhà lãnh đạo cho rằng chiến sự bùng nổ ở Hà Nội sẽ chỉ ngắn thôi, cho nên đã định chôn cất lại ở ngoại ô thành phố. Sau đó khi cuộc kháng chiến trở nên lâu dài, người Pháp trở lại Hà Nội và trong một chuyến rà soát, họ phát hiện ra. Tất cả các bằng chứng đều cho thấy rằng có một buổi lễ mà phía Pháp coi là một thắng lợi khi thu hồi được ấn đó và trao lại cho Bảo Đại, lúc đó trở thành quốc trưởng, có nghĩa là người đứng đầu chính quyền thân Pháp trong cuộc chiến ở Việt Nam. Cuối cùng chính quyền Bảo Đại cũng đổ năm 1955, ông lưu vong ra nước ngoài và có lẽ chiếc ấn cũng theo ông ra nước ngoài”.Trong thời gian sống ở Pháp, cựu hoàng Bảo Đại ly hôn hoàng hậu Nam Phương và sống không dư giả. Năm 1972, ông làm quen bà Monique Baudot, người sau này trở thành vợ ông và tự phong là hoàng phi Vĩnh Thụy. Sau khi cựu hoàng Bảo Đại qua đời năm 1997, hoàng phi xưng là hoàng hậu Thái Phương. Bà tiếp tục chăm sóc mộ phần của người chồng quá cố cho đến khi bà qua đời năm 2021. Khối tài sản mà vua Bảo Đại để lại cho người vợ Pháp đã được chia cho những người thừa kế.Tình trạng “chảy máu” báu vật do những biến cố lịch sửTheo nhà sử học Dương Trung Quốc, không chỉ có ấn vàng mà khá nhiều báu vật của Việt Nam bị thất thoát ở nước ngoài qua nhiều biến cố lịch sử.“Có những thất thoát trực tiếp trong biến cố ấy. Ví dụ người ta hay nhắc đến vụ người Pháp tấn công vào kinh đô Huế năm 1885 và sự cướp bóc kho tàng của triều đình Huế thì cũng chẳng khác gì chuyện xảy ra ở Trung Quốc, của liên quân Bắc Quốc đối với triều đại nhà Thanh. Cho nên số lượng báu vật ra nước ngoài là bao nhiêu, thì có thể nói đến bây giờ cũng chưa ai biết cụ thể cả.Điểm thứ hai là những biến cố lịch sử khiến cho một bộ phận cư dân phải rời tổ quốc ra đi. Họ cũng mang theo rất nhiều báu vật, cũng giống như thời kỳ Minh-Thanh, rất nhiều người Trung Quốc đi ra hải ngoại mang theo những gia bảo, cũng như những đồ vật có giá trị quốc gia. Tiếp theo phải kể đến những biến cố chính trị khác thời kỳ Pháp, Nhật, kể cả thời kỳ chiến tranh Mỹ ở Việt Nam. Có thể nói lưu dân Việt Nam tản cư cũng đã mang theo rất nhiều. Chỉ có điều bây giờ không biết là bao nhiêu và ở đâu. Bên cạnh đó còn có những công viện của những cơ quan nghiên cứu, như Viễn Đông Bác Cổ hay những bảo tàng lớn ở Pháp, cũng lưu giữ một số hiện vật trong quá trình khai quật, nghiên cứu”.Nhà nước và tư nhân cùng nhau bảo tồn di sảnKhi thông báo hủy bán đấu giá trên trang web, hãng Millon cho biết là đã đạt được thỏa thuận với chính phủ Việt Nam. Còn báo chí trong nước đưa tin ông Nguyễn Thế Hồng, nhà sưu tập tư nhân ở Bắc Ninh, đã ký với nhà đấu giá Millon hôm 13/01/2023 tại Pháp hợp đồng mua ấn vàng với giá 6,1 triệu euro, cao hơn gấp 2-3 lần giá thẩm định ban đầu là 2-3 triệu euro. Nhà tỉ phú chi kinh phí để đàm phán và hồi hương ấn vàng, dưới sự bảo trợ của Chính phủ và các bộ, ngành Việt Nam.Sự kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân để hồi hương cổ vật được nhà sử học Dương Trung Quốc đánh giá có ý nghĩa quan trọng, là một dấu hiệu tích cực cho việc bảo tồn di sản, lịch sử Việt Nam :“Câu chuyện liên quan đến việc đưa ấn “Hoàng đế chi bảo” về, lần đầu tiên có được sự phối hợp giữa Nhà nước, trực tiếp là cơ quan quản lý văn hóa của Nhà nước, với các cơ quan có trách nhiệm chuyên môn, các chuyên gia cùng với sự đồng thuận, ủng hộ của xã hội, ví dụ dòng tộc Nguyễn ở Huế, hay là những cơ quan, hội đoàn liên quan đến vấn đề bảo tồn di sản. Và cuối cùng là có nhà đầu tư sẵn sàng đứng ra làm việc này với tư cách cá nhân.Tôi cho đó là một dấu hiệu tích cực, một dấu hiệu tốt, bởi vì rất nhiều lần, chúng ta đã không đạt được việc tham gia các cuộc đấu thầu, chỉ vì những vấn đề liên quan đến pháp lý, chính sách, liên quan đến việc kết hợp với nhau, bởi vì việc này liên quan đến thời gian và tiền bạc. Còn trong chừng mực nào đó, tôi cho rằng sự hợp tác của Nhà nước với những cá nhân đã được mở ra từ Luật Di sản. Trong luật này, lần đầu tiên chúng ta tôn trọng những quyền sở hữu cá nhân đối với cổ vật, tất nhiên sẽ trừ ràng buộc về một số chế tài nhất định, nhưng về căn bản là ủng hộ. Ngay cả việc xây dựng những bộ sưu tập hoặc mở bảo tàng đều đã được quy định trong pháp luật. Và xu thế xã hội hóa, tức là dùng nguồn lực trong dân, để thực hiện việc này, cũng đã có. Cho nên tôi cho đó là cơ sơ pháp lý thuận lợi cho việc triển khai. Gần đây chẳng hạn, một số món được xếp vào đẳng cấp cao nhất trong hệ thống bảo vật quốc gia nằm trong bộ sưu tập tư nhân”.Một khó khăn cần khắc phục là phải nắm được số lượng báu vật nằm ở nước ngoài để có thể thương lượng, đàm phán, mua lại trước khi bị mang đấu giá vì thường sẽ có chi phí cao hơn và khả năng rơi vào tay các nhà sưu tập nước ngoài. Đây là điểm nhà sử học Dương Trung Quốc lấy làm tiếc :“Thực tế là người Việt Nam không kiểm soát được, cho nên bỏ lỡ khá nhiều cơ hội, ví dụ gần đây là chuyện bán đấu giá tranh của vua Hàm Nghi, hoặc ở Trung Quốc có bán đấu giá tranh về đức Trần Nhân Tông từ thời kỳ nhà Hồ. Phải nói đó là sự thực mà giới quản lý văn hóa Việt Nam, các nhà văn hóa và kể cả cá nhân tôi, người quan tâm đến di sản văn hóa quốc gia, cũng đều hết sức băn khoăn”. Thành công trong việc hồi hương ấn vàng triều Minh Mạng có thể là kinh nghiệm hữu ích sau này vào lúc Việt Nam muốn khẳng định “bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, nâng cao tự tôn dân tộc của thế hệ trẻ trên trường quốc tế”, theo ghi nhận của trang Thông tin Chính phủ Việt Nam.
11/13/2023 • 10 minutes, 43 seconds
Việt Nam cố giữ cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc
Hãng tin Anh Reuters ngày 06/10/2023 loan tin là các quan chức Việt Nam và Trung Quốc đang chuẩn bị cho chuyến thăm của chủ tịch Tập Cận Bình tới Hà Nội có thể vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11. Cho tới nay, đã đầu tháng 11, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều không có thông báo gì về chuyến đi này. Nhưng nếu có diễn ra thì đây sẽ là chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của ông Tập Cận Bình đến Việt Nam kể từ năm 2017. Chuyến đi này cũng sẽ diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm 15 năm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam.Việc chủ tịch Trung Quốc chấp nhận đi thăm Việt Nam phải chăng cho thấy Bắc Kinh đã không có phản ứng gay gắt về việc Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành đối tác chiến lược toàn diện nhân chuyến thăm Hà Nội vào tháng 9 của tổng thống Mỹ Joe Biden?Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 25/10/2023, nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, Đại học Boston, Hoa Kỳ, nhận định: “Đúng vậy. Nguyên nhân chính Bắc Kinh không có phản ứng gay gắt về việc Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện là do các nỗ lực ngoại giao của Việt Nam để điều hòa quan hệ với Trung Quốc, ít nhất là từ tháng 6 cho đến nay. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đến thăm Trung Quốc vào cuối tháng 6 khi tàu sân bay Ronald Reagan ghé thăm Đà Nẵng. Ông Chính cũng có chuyến thăm Trung Quốc lần hai vào tháng 9 tại Nam Ninh chỉ vài ngày sau khi tổng thống Joe Biden thăm Hà Nội. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng mới đây cũng đã đến Bắc Kinh và hội kiến chủ tịch Tập Cận Bình. Cả ba chuyến viếng thăm trên đều thể hiện một thông điệp chính của Việt Nam là Hà Nội mong muốn hai nước tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao nồng ấm và Việt Nam không có ý định ngả theo Mỹ để chống Trung Quốc. Nếu chủ tịch Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam, đây sẽ là một chỉ dấu rất lớn là các nỗ lực trấn an Trung Quốc của Việt Nam đã thành công. Đây cũng sẽ là chuyến đi đáp lễ 3 chuyến đi của lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là chuyến đi của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 10, tháng 11/2022.” Nhà phân tích Sebastian Strangio của trang mạng The Diplomat ( Nhật Bản ) cũng có cùng nhận định: “Thật khó để tưởng tượng rằng Việt Nam đã không báo trước cho Bắc Kinh về việc nâng cấp quan hệ với Mỹ và trấn an họ rằng hành động này không nhắm vào Trung Quốc. Tổng thống Biden cũng đã nhấn mạnh chuyến thăm Việt Nam của ông là nhằm mục đích xây dựng các mối quan hệ của Hoa Kỳ trên khắp châu Á, chứ không phải để kiềm chế Trung Quốc. Nhưng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, đặt Hoa Kỳ ngang hàng với Trung Quốc và Nga, Trung Quốc có thể cảm thấy cần phải đòi Việt Nam chấp nhận một bản “nâng cấp” mới trong quan hệ song phương.”Theo hãng tin Reuters, trước chuyến viếng thăm của ông Tập Cận Bình, Hà Nội và Bắc Kinh đang thảo luận về việc có thể đưa cụm từ “cộng đồng chung vận mệnh” vào tuyên bố chung để mô tả mối quan hệ song phương.Cụm từ “cộng đồng chung vận mệnh” đã trở nên “thịnh hành” sau khi ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012, thể hiện mức độ quan hệ song phương cao nhất đối với chính quyền Tập Cận Bình. Trung Quốc đã thiết lập “cộng đồng chung vận mệnh” với Lào vào năm 2017 và Cam Bốt vào năm 2018, sau đó là với Miến Điện trong chuyến thăm cấp nhà nước của ông Tập Cận Bình đến nước này vào tháng 1/2020. Mặc dù Bắc Kinh rõ ràng muốn Việt Nam gia nhập nhóm các quốc gia “có chung vận mệnh” với Trung Quốc, hai nguồn tin nói với Reuters rằng các quan chức Việt Nam thận trọng về việc thêm cụm từ đó vào tuyên bố chung. Trung Quốc được cho là đã từng tỏ ý muốn tuyên bố một cộng đồng chung vận mệnh với Việt Nam trong chuyến thăm cấp nhà nước của ông Tập Cận Bình vào năm 2017, nhưng Hà Nội lúc đó đã bác bỏ.Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang cho rằng dù không muốn “cộng đồng chung vận mệnh” với Trung Quốc, thật ra Việt Nam cũng khó mà thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh: “Theo chính sách ngoại giao của Trung Quốc, cụm từ "cộng đồng chung vận mệnh" là dành cho những nước mà Trung Quốc coi là những đối tác quan trọng. Việc Việt Nam có đưa cụm từ "cộng đồng chung vận mệnh" vào tuyên bố chung hay không thật ra cũng không quá quan trọng. Về bản chất, Việt Nam cũng không có nhiều lựa chọn trong quan hệ với Trung Quốc, khi Trung Quốc đã cho Việt Nam thấy rằng các nỗ lực thoát Trung trong quá khứ của Việt Nam đã thất bại, nhất là sau khi Việt Nam phải đồng ý bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trên thế yếu vào năm 1991, sau khi đồng minh Liên Xô đã không còn khả năng giúp Việt Nam thoát Trung như giai đoạn từ 1978 đến 1988.Trung Quốc muốn một Việt Nam trung lập nằm trong ảnh hưởng của Trung Quốc. Do vậy, nếu Việt Nam có thể đảm bảo với Trung Quốc rằng Việt Nam không có ý định chống Trung Quốc, Trung Quốc cũng không cần phải ép Việt Nam. Nếu Việt Nam chấp nhận đưa cụm từ “cộng đồng chung vận mệnh” vào tuyên bố chung thì có thể hiểu Hà Nội muốn thể hiện với Trung Quốc rằng quan hệ hai nước vẫn đang phát triển tốt đẹp và là kết quả của các chuyến thăm cấp cao giữa hai nước từ tháng 6 đến nay, và cũng nhằm để cân bằng bước “nhảy cóc” từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ vào tháng 9 vừa qua.”Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn muốn cho Việt Nam thấy tính chất đặc biệt trong quan hệ giữa hai nước. Theo Tân Hoa Xã, trong cuộc gặp với chủ tịch nước Võ Văn Thưởng ở Bắc Kinh ngày 20/10 nhân diễn đàn “Vành đai và Con đường”, ông Tập Cận Bình kêu gọi Việt Nam “đừng quên cội nguồn của tình hữu nghị” giữa hai quốc gia Cộng sản này. Về phần mình, trong cuộc hội kiến với Thái Kỳ, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Võ Văn Thưởng cũng nhìn nhận Việt Nam và Trung Quốc là hai nước “tương đồng về thể chế chính trị, con đường phát triển và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Ông khẳng định: “ Việt Nam coi trọng việc củng cố và phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc, coi đây là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam”.Trong bài viết đăng trên trang web của Viện nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak ( ISEAS – Yusof Ishak Institute ), một nhà nghiên cứu của Viện này, Lye Liang Fook, nhấn mạnh đến quan hệ giữa hai đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam: “Việt Nam dường như đang xích lại gần hơn với Hoa Kỳ với việc nâng cấp quan hệ gần đây lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Tuy nhiên, không nên đánh giá quá cao diễn biến này, vì quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ giữa hai đảng, vẫn bền chặt. ( … ). Trung Quốc và Việt Nam đều có lợi ích trong việc đảm bảo cho các đảng cộng sản cầm quyền của họ duy trì sự thống trị.”Lye Liang Fook nhắc lại: “Vào thời điểm quan hệ song phương xuống thấp, Hà Nội và Bắc Kinh đã dựa vào mối quan hệ giữa hai đảng để kiểm soát những bất đồng và đưa quan hệ trở lại đúng hướng. Sau những đụng độ căng thẳng trong sự cố giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cử đặc phái viên Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, tới Bắc Kinh vào tháng 8/2014 để hàn gắn quan hệ. Đổi lại, Tập Cận Bình đã cử ông Du Chánh Thanh (Yu Zhengsheng) đến thăm Việt Nam vào tháng 12/2014. Việc Du Chánh Thanh là nhân vật đứng hàng thứ tư trong Đảng cộng sản Trung Quốc cho thấy quan hệ Việt-Trung đã bắt đầu được cải thiện trở lại.” Lye Liang Fook cũng ghi nhận: “Các cuộc trao đổi cấp cao thường xuyên giữa Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam có mức độ tương tác cao hơn so với các trao đổi cấp chính phủ giữa hai nước. Kể từ khi Tập Cận Bình trở thành tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc vào năm 2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có ba chuyến thăm Trung Quốc ( 04/2015, 01/2017 và 10/2022 )”. Chuyến thăm tháng 10/2022 nổi bật vì chuyến thăm này nhằm thực hiện lời hứa của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình là sẽ thực hiện chuyến công du ngoại quốc đầu tiên tới Trung Quốc sau khi tái đắc cử tổng bí thư vào tháng 1/2021. Về phần mình, sau khi tái đắc cử tổng bí thư, ông Tập Cận Bình cũng đã chọn Việt Nam là điểm đến đầu tiên qua chuyến thăm vào tháng 11/2017. Phải chăng mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc vẫn rất bền chặt và như vậy Việt Nam sẽ phải tiếp tục xem Trung Quốc là đối tác hàng đầu hơn bất cứ quốc gia nào khác, cho dù giữa hai nước vẫn thường có căng thẳng do tranh chấp chủ quyền Biển Đông? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang đưa ra một ý kiến khác: “Quan hệ giữa hai Đảng không nói hết được tại sao Việt Nam phải xem Trung Quốc là đối tác hàng đầu. Về bản chất, dù có theo thể chế chính trị nào đi chăng nữa, Việt Nam vẫn là một nước nhỏ so với Trung Quốc, và đã là nước nhỏ thì phải chịu sự ảnh hưởng của nước lớn dù muốn hay không. Các hoàng đế phong kiến Việt Nam hơn 1000 năm từ sau khi đất nước giành được độc lập dưới thời Ngô Quyền đều hiểu rõ bài học này, nên cho dù Việt Nam có đánh thắng Trung Quốc trên chiến trường, thì Việt Nam vẫn phải cử sứ giả để cầu hòa và chấp nhận tiếp tục làm chư hầu của Trung Quốc. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết tâm thoát Trung vào giai đoạn 1978-1991, nhưng cũng như các triều đại phong kiến Việt Nam, dù thắng trên chiến trường nhưng cũng phải chấp nhận cầu hòa với Trung Quốc, vì Việt Nam không đủ sức mạnh để đối đầu với Trung Quốc lâu dài. Do vậy, Việt Nam nên khôn khéo bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp ngoại giao, do Việt Nam không thể chiến thắng trong một cuộc đua vũ trang với Trung Quốc. Trung Quốc chỉ ủng hộ chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam khi Việt Nam khẳng định với Trung Quốc là chính sách đa phương đó không làm tổn hại tới lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Bất kể cùng chung ý thức hệ, Trung Quốc giai đoạn 1978-1991 đã cho Việt Nam thấy rằng chỉ cần Bắc Kinh muốn cô lập Hà Nội, thì Hà Nội cũng không có cách nào thoát được, kể cả khi Liên Xô đã nỗ lực giúp Việt Nam thoát Trung.Nhà phân tích Jeff Zeberlein, nguyên là một sĩ quan hải quân Mỹ, trên trang web của Jamestown Foundation ngày 20/10 đã viết: “Các nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ hoan nghênh những phát triển ngoại giao ( trong quan hệ Mỹ-Việt ), nhưng các chuyên gia khu vực cảnh báo rằng bối cảnh địa lý của Việt Nam ngăn cản việc tăng cường hơn nữa quan hệ với phương Tây: Trung Quốc và Việt Nam có chung đường biên giới trên bộ và trên biển, đó là một phần lý do tại sao nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu của Trung Quốc. Vì lợi ích chiến lược của mình, Việt Nam không thể đoạn tuyệt hoàn toàn với Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ được coi là một đối tác không đáng tin cậy, không chỉ vì lý do lịch sử, mà còn do hệ thống chính trị khác nhau giữa hai nước: Dưới con mắt của giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam, các tiến trình chính trị dân chủ của Hoa Kỳ dẫn đến việc ra những quyết định thất thường, ngắn hạn. Nhưng sự cải thiện rõ rệt trong quan hệ Mỹ-Việt là tích cực cho cả hai nước, ngay cả khi Việt Nam khó có thể từ bỏ cách tiếp cận hòa giải đối với Bắc Kinh. Chính sách Bốn Không sẽ được triển khai với cả các đối tác phương Tây và Trung Quốc để mang lại cho Việt Nam nhiều quyền tự chủ hơn. Các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ có thể thấy thất vọng vì tiến trình hội nhập quân sự chặt chẽ hơn bị đình trệ khi Việt Nam điều chỉnh quan hệ với phương Tây để xoa dịu Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Việt Nam chuyển sang một chính sách Bốn Không ít hạn chế hơn là bằng chứng cho thấy cam kết mạnh mẽ hơn của Việt Nam trong việc đối đầu với hành động mang tính cưỡng ép của Trung Quốc ở Biển Đông, mặc dù điều đó cũng có thể báo trước nhiều cuộc đụng độ hơn để bảo vệ các yêu sách biển của Việt Nam.”
11/6/2023 • 9 minutes, 35 seconds
Những huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương
Quan hệ giữa Hội Tam Điểm ( Franc-maçonnerie) với Việt Nam là một đề tài cho tới nay ít được nhắc đến trong các sách về lịch sử đương đại của Việt Nam. Một trong số hiếm hoi các nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài này là tiến sĩ Trần Thu Dung, hiện sống tại Pháp. Tháng 6 vừa qua, cuốn sách bằng tiếng Pháp của bà "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) vừa được nhà xuất bản L'Harmattan phát hành. Đây là một tài liệu quý hiếm và rất thú vị đối với những độc giả Pháp muốn tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của Hội Tam Điểm ở Việt Nam vào thời kỳ Đông Dương còn thuộc Pháp.Hội Tam Điểm nói chung là tập hợp các hội mà việc tuyển chọn là theo nguên tắc hội viên chọn giới thiệu các hội viên mới ( cooptaion ) và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về nghề thợ nề. Tên gọi theo tiếng Việt Hội Tam Điểm được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân.Hội Tam Điểm truyền bá một lối giáo dục dựa trên những biểu tượng và nghi lễ, khuyến khích hội viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi người lựa chọn cách để thực hiện điều đó.Cho tới nay, các học giả vừa chưa xác định được chính xác thời điểm ra đời của Hội Tam Điểm, mà chỉ tạm xem Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là ở Anh Quốc rồi dần dần lan ra các quốc gia khác, trong đó có Pháp, từ đó được du nhập vào Việt Nam. Vậy những tư tưởng của Hội Tam Điểm đã được truyền bá ở Việt Nam như thế nào và những nhân vật nào đã là những hội viên nổi bật của Hội vào thời đó? Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với, tác giả của cuốn sách “Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương”. RFI: Thưa tiến sĩ Trần Thu Dung, cuốn sách của chị có tựa "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) là để nói về những nhân vật lịch sử đã từng là hội viên Tam Điểm, nhưng cho tới nay ít ai biết đến điều đó. Nhưng trước tiên xin chị cho biết là Hội Tam Điểm đã được du nhập vào Việt Nam như thế nào trong bối cảnh Đông Dương lúc ấy còn thuộc Pháp?Trần Thu Dung: Lúc đó, những người Pháp đầu tiên sang Đông Dương làm thuộc địa, như Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, là thành viên của Hội tam Điểm, thành ra đại đa số trong ê kíp của ông cũng là hội viên Tam Điểm. Họ muốn khoa trương thời kỳ “hoàng kim” lúc ấy của Hội Tam Điểm, vì thế chúng ta thấy nóc Nhà Đông Dương là hình kim tự tháp, mà kim tự tháp là biểu tượng của Hội Tam Điểm. Khi đến Việt Nam, họ cũng có nhu cầu sinh hoạt bắt buộc. Họ tụ tập lại, nhưng ban đầu là ở Cochinchine, tức là Nam Kỳ, nơi thành lập đầu tiên các Hội Tam Điểm. Ngay cả cha của nhà văn Marguerite Duras cũng là hội viên của những Hội Tam Điểm đầu tiên. Tên của những hội này thay đổi liên tục cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, ví dụ như họ đổi thành hội Tonkinoise, hay trước kia có tên là Những anh em huynh đệ Bác Ái, nhưng sau này cũng đổi tên thành chẳng hạn như Ánh Sáng Bắc Kỳ. Lúc đó bắt đầu họ chiến thắng, đi đến tận Bắc Kỳ. Đến khoảng 1886, hội ngày càng phát triển mạnh và sau đó họ ra công khai, nhưng những hội đầu tiên đó là dành cho người Pháp, chứ người thuộc địa chưa được vào. RFI: Vậy thì kể từ thời gian nào người bản xứ ở Đông Dương mới bắt đầu được thâu nhận vào các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Hầu hết các lãnh đạo của Hội Tam Điểm thời đó đã đề nghị “Pháp Việt đề huề”. Khi ra chính sách “Pháp Việt đề huề”, thì bắt buộc phải đưa những người bản xứ vào hội.Nhưng vào năm 1917 hay 1919 ( tôi không nhớ chính xác, phải xem lại lịch sử ), Pháp bắt đầu xóa kỳ thi của Việt Nam theo hệ thống Khổng Tử, tức là hệ thống theo ảnh hưởng của Trung Quốc, áp đặt kỳ thi tuyển theo Pháp. Thành ra chúng ta mới có câu thơ: “ Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”. Pháp bắt đầu áp đặt rằng tất cả những người lãnh đạo đều phải biết tiếng Pháp và do Pháp đào tạo.Bắt đầu từ đó, khoảng đầu thế kỷ 20, mới xuất hiện người Việt Nam trong Hội Tam Điểm. Nhưng các hội viên đầu tiên là được kết nạp bên Pháp. Đó là những sinh viên đi du học nhưng rất yêu nước, muốn tìm một con đường để đi cứu nước. Họ vào những hội mà họ nghĩ là theo đúng phương châm Tự do Bình đẳng Bác ái, đảng nào vào cũng được, vì hội là phi chính trị, phi đảng phái, phi tôn giáo. Họ nghĩ đó là cái hay nhất, bởi vì như thế là anh có theo đảng nào, theo tôn giáo nào thì tôi cũng không cấm, miễn là tôi bình đẳng với anh, bình đẳng trong suy nghĩ, tôn trọng kiến thức của nhau.Rất nhiều trí thức Việt Nam lúc ấy đã đi theo con đường này, đầu tiên là ở bên Pháp, rồi họ trở về Việt Nam. Trở về Việt Nam thì phải có nhu cầu họp hàng tháng, nên họ kiến nghị lên trên để đòi hỏi: Chúng tôi về Việt Nam thì sẽ được hoạt động ở đâu? Ban đầu những người Pháp thuộc địa không muốn nhận, nhưng rồi cũng phải chấp nhận những huynh đệ người Việt từ Pháp trở về. Cho nên bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam trong các Hội Tam Điểm. Sau này thì kết nạp rất nhiều, chẳng hạn như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc ấy có Hội chợ Thuộc địa ở Pháp, các cụ mới sang và được giới thiệu gặp những hội viên Tam Điểm bên đây. Bao giờ khi kết nạp thì cũng phải có 2 hay 3 người giới thiệu. Nhưng khi còn ở Việt Nam thì rất khó. Tôi có đọc được thư của những hội viên Tam Điểm người Pháp không muốn kết nạp người Việt, cho nên những hội viên Tam Điểm tiến bộ hơn đã đưa những người Việt này sang Pháp để gặp lại những người Tam Điểm này, bắt buộc họ giới thiệu và kết nạp những hội viện mới là người Việt. Những người như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những người nổi tiếng, có rất nhiều bạn bè, thì họ mới đưa những người bạn đến để được kết nạp ở Việt Nam.RFI: Như vậy là nhờ nguyên tắc hoạt động là kết nạp qua giới thiệu, thành ra mới mở rộng được số thành viên người Việt trong các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Đúng vậy, tức là phải có 2 hoặc 3 người, và có một người gọi là điều tra viên đến xem tư tưởng của anh là như thế nào, nhưng anh phải đề cao tính nhân đạo, phải tôn trọng ý kiến của người khác và đấu tranh trực diện bằng tư tưởng của anh. Người Việt vào được là vì họ cũng bắt đầu đấu tranh, đấu tranh từng bước một, chứ không phải tự nhiên là được vào. Chẳng hạn như khi bầu bán lãnh đạo hội hai năm một lần, người Việt hầu như không được bầu, vì họ vẫn bị xem như là subalterne ( cấp thấp ), giống như là bù nhìn. Nhưng khi người Việt vào đông, bắt đầu có người Việt ứng cử trong các cuộc bầu cử hai năm một lần một người phụ trách thay phiên nhau, ai cũng có thể làm người phụ trách, theo hình tam giác: làm thầy rồi làm thợ, làm thợ rồi làm thầy, bởi vì thầy cũng phải vươn lên, học những người giỏi hơn. Chính là lúc đó mà ông Phạm Huy Lục được bầu, nhưng tôi đã đọc được những lá thư chống đối vì không muốn người Pháp đứng dưới một người Việt trong một hội như thế, nhưng cuối cùng họ cũng phải chấp nhận. Phạm Huy Lục cũng đã từng là dân biểu Pháp tại Việt Nam. RFI: Vấn đề Hội Tam Điểm ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn là một đề tài tế nhị, ít ai nhắc đến. Nhờ cuốn sách của chị mà chúng ta biết được là một số nhân vật chính trị nổi tiếng của Việt Nam như Nguyễn Ái Quốc, tức là Hồ Chí Minh, hay cựu thủ tướng Trần Trọng Kim, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, luật sư Trịnh Đình Thảo, hay nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, nhà trí thức Phạm Quỳnh đã từng là hội viên Tam Điểm. Họ đã tiếp thu các tư tưởng của Hội Tam Điểm như thế nào và áp dụng những tư tưởng đó như thế nào trong cuộc đấu tranh ở Việt Nam?Trần Thu Dung: Lúc ấy đã bắt đầu có sự mâu thuẫn với nhau, bởi vì có những người cho rằng đi theo Hội Tam Điểm là con đường đấu tranh không đổ máu nhất cho dân, vì kinh tế, chính trị, vũ khí mình đều thua Pháp. Họ nghĩ là không thể làm một cuộc cách mạng lớn, nên phải đi theo con đường ôn hòa, tức là ủng hộ “Pháp Việt đề huề”.Trước năm 1945, không có người Việt nào làm thị trưởng thành phố Hà Nội, chỉ sau 45, mới bắt đầu xuất hiện, mà ban đầu bao gồm đến 2 phần 3 là người Tam Điểm, thay phiên nhau nắm quyền, như ông Trần Văn Lai, rồi Thẩm Hoàng Tín, những thị trưởng do Pháp chỉ định. Lúc đó, Pháp đã rút, nhưng vẫn cứ muốn nắm quyền ở Đông Dương, cho nên lúc đấy mới sử dụng người Việt để trị người Việt, để tiếp tục “Pháp Việt đề huề”, nhưng không thành bởi vì có một số mâu thuẫn, chẳng hạn như Hồ Chí Minh thì theo Nga, tức là theo một hướng khác. Nhưng lúc ấy, những đảng ở Việt Nam nằm trong liên minh Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức Việt Minh, thì các trưởng đảng như tổng thư ký hay phó thường cũng là hội viên Tam Điểm. Hồ Chí Minh cũng là thành viên Tam Điểm, nhưng dù đều là huynh đệ, nhưng họ chọn những con đường khác nhau để đi đến giành độc lập, chứ tất cả không thống nhất với nhau. Cho nên đã có những cái hiểu nhầm nhau.Người ta nói là đã có sự thanh trừng lẫn nhau ( giữa các huynh đệ Tam Điểm ), tôi không nắm được chuyện đó, nhưng chắc là cũng có. Nhưng có một chuyện này là chuyện rất thật: con của cụ Phạm Huy Lục, người được bầu là “đại sư” của Hội Tam Điểm có đông người Việt, kể lại khi có bạo loạn, lúc ấy ông mới 18 tuổi: “ Tôi biết là bố tôi cám ơn ông Hoàng Minh Giám ( bộ trưởng Ngoại Giao của Hồ Chí Minh ) đã báo cho bố tôi phải đi ngay đi vì có thể sẽ bị hiểu nhầm và bị ám sát, cho nên cụ đã bỏ đi vào Nam, rồi sang Pháp”Đã có những cái mâu thuẫn trong anh em: theo Pháp, “Pháp Việt đề huề”, hay giành độc lập một cách tuyệt đối bằng một cuộc cách mạng.RFI: Như vậy là bối cảnh chính trị lúc ấy làm cho Hội Tam Điểm Việt Nam bị phân hóa. Thành ra có những người phục vụ cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, những người khác thì phục vụ cho các chính phủ ở miền nam, mà đầu tiên là chính phủ lâm thời do Pháp dựng nên?Trần Thu Dung: Đúng như thế. Tôi nghĩ rằng đã có những mâu thuẫn rất lớn, đã có những chia rẽ. Đi đến hòa hợp hay không là tùy suy nghĩ chính trị của từng người. Vì thế tôi mới viết cuốn sách này để cho thấy là trong cuộc đấu tranh đó, có rất nhiều hướng đi khác nhau.RFI: Vì sao cho tới nay, Hội Tam Điểm ở Việt Nam vẫn còn là một chủ đề tế nhị? Thậm chí xuất bản một cuốn sách về đề tài này ở Việt Nam cũng không phải là đơn giản?Trần Thu Dung: Vì ngày xưa, họ cứ gọi là “theo gót Tây”, “xỏ nhầm giày, để nói về những người ủng hộ Pháp, họ muốn xóa nhòa tất cả những gì dính đến Pháp. Chẳng hạn như vào năm 1945, ông Trần Văn Lai là người của Hội Tam Điểm, nhưng chính ông là người đầu tiên đứng ra giựt các tượng mà Hội Tam Điểm tặng, tức là tượng Nữ thần Tự do, đổi hết tên các con đường của Pháp thành tên những anh hùng. Họ muốn xóa hết những dấu vết và hầu như thanh trừng những người còn ủng hộ Pháp, hay dính đến Pháp.Trong quyển sách này tôi đưa ra các bằng chứng về một khía cạnh lịch sử, về cuộc đấu tranh mà không ai biết đến, các cụ đều tham gia, nhưng đấy là một con đường mà họ đi tìm để giành độc lập dân tộc. Bây giờ lớp trẻ đọc được họ mới hiểu đấy là một con đường, chứ không phải cái gì dính đến Pháp là xấu.
11/3/2023 • 12 minutes, 6 seconds
Thăm Việt Nam, tổng thống Putin không lo bị bắt theo lệnh truy nã của CPI - Tòa Hình sự Quốc tế ?
Tổng thống Vladimir Putin “vui vẻ nhận lời mời” thăm Việt Nam của chủ tịch Võ Văn Thưởng trong cuộc gặp ngày 17/10/2023 bên lề Diễn đàn Vành Đai và Con Đường ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Ông Thưởng “khẳng định Việt Nam luôn ghi nhớ sự ủng hộ và giúp đỡ” của nhân dân Nga trong công cuộc xây dựng đất nước trước đây và ngày nay. Việt Nam có đường lối “đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa” và “luôn coi Liên bang Nga là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu”. Lời mời được đưa ra không lâu sau chuyến công du Việt Nam của tổng thống Mỹ Joe Biden, trong khi ông Putin cũng đang phải đối mặt với lệnh truy nã quốc tế do Tòa Án Hình Sự Quốc Tế ban hành. Một chuyến công du như vậy có thể diễn ra trong bối cảnh như thế nào ? Việt Nam có gặp trở ngại gì nếu tiếp đón tổng thống Putin ?RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp (École Normale supérieure de Lyon).RFI : Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nhận lời mời sớm thăm Việt Nam. Căn cứ vào bối cảnh chính trị thế giới hiện nay, liệu chuyến thăm có thể “sớm” diễn ra không ? Laurent Gédéon : Để trả lời cho câu hỏi này cần nhắc lại tầm quan trọng của mối quan hệ Nga-Việt. Người ta nhớ rằng sự kiện ông Vladimir Putin lên nắm quyền đã đánh dấu một bước khởi đầu mới trong quan hệ giữa hai nước. Chuyến công du đầu tiên đầy ấn tượng của tổng thống Nga diễn ra ngay tháng 03/2001. Hai bên đã ký Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược. Đây cũng là thỏa thuận đầu tiên theo hình thức này của Việt Nam, tập trung tăng cường hợp tác song phương trong các lĩnh vực năng lượng, hạt nhân, công nghệ, quân sự, văn hóa và học thuật.Kể từ năm 2008, hai bên đã thiết lập cơ chế Đối thoại quốc phòng thường niên. Năm 2012, Đối tác chiến lược được nâng cấp thành Đối tác chiến lược toàn diện. Năm 2013, một bản ghi nhớ về hợp tác hải quân được thông qua. Đến năm 2015, dưới sự bảo trợ của Nga, Việt Nam ký một thỏa thuận tự do thương mại với Liên minh Kinh tế Á-Âu. Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng được hai nước ký năm 2016.Mối quan hệ song phương vẫn không ngừng tăng cường sau cuộc khủng hoảng tại Ukraina. Năm 2022, ngoại trưởng Nga Sergueï Lavrov đã công du Việt Nam hai ngày. Một năm sau đến lượt chủ tịch Tòa Án Tối Cao Liên bang Nga Vyatcheslav Lebedev. Ông Dmitry Medvedev, chủ tịch đảng Nước Nga thống nhất, phó chủ tịch Hội đồng An ninh Liên bang Nga, cũng thăm Việt Nam vào tháng 05/2023. Đọc thêm : "Việt Nam muốn khẳng định chính sách đối ngoại độc lập và tự chủ" khi tiếp ngoại trưởng NgaMối quan hệ song phương có thể được tóm lược như sau. Về mặt kinh tế, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong khối ASEAN. Matxcơva cung cấp gần như toàn bộ dầu khí mà Việt Nam sử dụng. Về mặt quân sự, Matxcơva là đối tác chính của Hà Nội. Nga giúp Việt Nam phát triển năng lực phòng chống tên lửa trên bộ và trên biển. Nga tham gia tích cực vào quá trình hiện đại hóa đội tầu chiến Việt Nam và tăng khả năng tấn công của quân đội Việt Nam.Về mặt ngoại giao, tổng thống Vladimir Putin có thể trông cậy vào sự ủng hộ không lay chuyển của chính phủ Việt Nam. Ví dụ, Hà Nội đã không lên án cuộc xâm lược Ukraina. Tháng 04/2022, Việt Nam cũng bỏ phiếu chống một dự thảo nghị quyết loại Nga khỏi Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc.Trở lại câu hỏi, dù khó đoán chính xác ngày công du nhưng dựa vào bối cảnh thuận lợi cho mối quan hệ Việt-Nga, có lẽ năm 2024 là thời điểm phù hợp cho chuyến công du chính thức Việt Nam của tổng thống Nga. Lý do là 2024 là năm quan trọng cho cả hai nước vì đánh dấu tròn 30 năm ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nga (1994-2024).RFI : Tổng thống Nga Putin bị Tòa Án Hình sự Quốc tế (CPI) phát lệnh bắt vì bị cáo buộc cưỡng ép đưa trẻ em Ukraina sang Nga hoặc các vùng lãnh thổ Ukraina bị Nga chiếm đóng. Nhưng dường như ông Putin có thể hoàn toàn yên tâm nếu đến thăm Việt Nam ?Laurent Gédéon : Việt Nam, cũng như Nga, không tham gia Công ước Roma. Theo một sắc lệnh tổng thống ký ngày 16/11/2016, Nga đã rút khỏi.Tuy nhiên, cần nhắc đến một tiền lệ về trường hợp cựu tổng thống Sudan Omar El-Béchir. Tháng 06/2015, ông Omar El-Béchir, bị truy tố vì tội diệt chủng ở Darfour, đến Nam Phi dự thượng đỉnh Liên Hiệp Châu Phi. Dù ký Công ước Roma nhưng Nam Phi đã từ chối bắt ông Omar El-Béchir trước khi ông vội rời khỏi nước này. Chính quyền Pretoria lập luận rằng họ bị khó xử giữa việc tôn trọng quy định của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế với chính luật pháp của Nam Phi liên quan đến bảo đảm quyền miễn trừ của tổng thống. Đáp lại, Tòa Án Hình Sự Quốc Tế cho rằng Pretoria đã không làm tròn bổn phận quốc tế vì không bắt tổng thống Sudan lúc ông có mặt trên lãnh thổ Nam Phi. Tòa Án Hình Sự Quốc Tế nhắc lại rằng Nam Phi, cũng như bất kỳ quốc gia thành viên nào khác, có nghĩa vụ bắt giữ một cá nhân bị Tòa Án Hình Sự Quốc Tế truy nã.Ngoài ra cũng cần nhắc lại trường hợp của cựu tổng thống Chilê Augusto Pinochet dù khuôn khổ pháp lý không hẳn giống nhau. Ông Pinochet là đối tượng trong lệnh bắt quốc tế của một bồi thẩm đoàn quốc gia Tây Ban Nha. Bồi thẩm đoàn này tuyên bố có thẩm quyền dựa trên nguyên tắc thẩm quyền chung sau khi các nạn nhân chịu tra tấn và ép mất tích ở Chilê đệ đơn kiện. Tướng Pinochet bị chính quyền Anh bắt vào tháng 10/1998 khi đến nghỉ ở Anh Quốc. Bị quản thúc tại gia, nhà cựu độc tài trở thành đối tượng bị dẫn độ theo quyết định của các thẩm phán Anh. Nhưng biện pháp này chưa bao giờ được thi hành cho đến khi ông Pinochet được trả tự do và trở về Chilê năm 2000. Đọc thêm : Putin có thể bị bắt giữ theo lệnh truy nã Tòa án Hình sự Quốc tế ?Liên quan đến tổng thống Vladimir Putin, vấn đề từng được nêu lên hồi tháng 08/2023 nhân thượng đỉnh BRICS ở Pretoria. Chính quyền Nam Phi tỏ ra do dự, thậm chí còn nêu khả năng rút khỏi Quy chế Roma. Cuối cùng, họ đã không là gì. Còn tổng thống Nga quyết định không công du Nam Phi vì phần nào không muốn đẩy đối tác Nam Phi vào thế khó xử.Trong trường hợp của Việt Nam, bối cảnh có thể sẽ khác bởi vì ông Putin là khách mời chính thức chứ không phải đến nhân dịp nào đó, ví dụ trong khuôn khổ một cuộc họp thượng đỉnh quốc tế. Ngoài ra, ông Putin là người đứng đầu một Nhà nước không tham gia Quy chế Roma, là khách mời của một nước cũng không phải là thành viên Quy chế Roma. Trong bối cảnh đó, khả năng Tòa Án Hình Sự Quốc Tế gây sức ép có lẽ sẽ rất hạn chế bởi vì Việt Nam không bị ràng buộc phải tuân theo những quy định của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế.Trong những điều kiện nói trên, có thể thấy rằng không phải khía cạnh pháp lý sẽ đè nặng lên việc đánh giá rủi ro cho chuyến công du mà là khía cạnh chính trị.RFI : Việt Nam ngỏ lời mời nhưng liệu có thực sự muốn ông Putin đến thăm vào thời điểm này không ? Laurent Gédéon : Trong bối cảnh như vậy, Hà Nội có lẽ sẽ bị gây sức ép từ hai đối tác chính : Hoa Kỳ và Trung Quốc. Về phía Bắc Kinh, khó có thể thấy Trung Quốc nhất quyết yêu cầu Việt Nam dẫn độ đồng minh thân cận nhất của họ.Liên quan đến Hoa Kỳ, cần phải tính đến chủ đích của Washington muốn xích gần Việt Nam về mặt địa chiến lược, trong đó minh chứng mới nhất là chuyến công du Hà Nội của tổng thống Joe Biden trong hai ngày 10 và 11/09. Mỹ chủ trương vượt một bước trong mối quan hệ song phương và tiến tới hợp tác đối tác chiến lược toàn diện và việc này đã được thực hiện. Cho đến hiện nay, Việt Nam chỉ ký mô hình hợp tác này với các nước Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc. Cho nên đối với Washington, đó là một thắng lợi ngoại giao đáng kể.Trong những điều kiện đó và căn cứ vào tầm quan trọng của Việt Nam đối với Washington trong quá trình cạnh tranh toàn cầu giữa hai siêu cường, rất có thể Mỹ chỉ gây sức ép mang tính biểu tượng thông qua tuyên bố về chuyến công du của tổng thống Nga nếu chuyến công du diễn ra.RFI : Ông Putin từng tuyên bố là không muốn đẩy “bạn hữu” vào thế khó xử khi quyết định không đến dự thượng đỉnh BRICS ở Nam Phi. Liệu có thể suy luận là ông Putin sẽ đến Việt Nam vào thời điểm thích hợp ?Laurent Gédéon : Tôi không nghĩ là bối cảnh giống với bối cảnh chuyến công du Nam Phi từng dự kiến của tổng thống Nga. Ông Putin nhận lời mời đích danh từ đồng nhiệm Việt Nam. Cần phải coi cử chỉ này không phải là một lời mời thông thường mà có ý nghĩa về mặt ngoại giao và địa-chính trị.Qua lời mời tổng thống Nga, Hà Nội gửi đi ba thông điệp. Trước tiên là thông điệp gửi đến Nga, bày tỏ mong muốn của Việt Nam tiếp tục quá trình hợp tác được gây dựng từ nhiều năm qua trong bối cảnh hai nước thông hiểu nhau. Lời mời này cũng thể hiện sự coi trọng của chính quyền Việt Nam, muốn nói rằng Nga không bị loại khỏi cuộc chơi và Nga luôn giữ tiềm năng địa-chính trị quan trọng trong mắt Việt Nam. Đọc thêm : Nga xâm lược Ukraina và “Ngoại giao cây tre” của Việt NamThông điệp thứ hai được gửi đến Trung Quốc. Hà Nội muốn cho Bắc Kinh thấy là họ duy trì mối quan hệ đặc quyền với Nga, quốc gia mà Trung Quốc cũng có mối quan hệ gần gũi sâu sắc. Điều này tăng cường vị thế của Việt Nam đối với Bắc Kinh trong khi hai bên tranh chấp chủ quyền gay gắt ở Biển Đông.Thông điệp cuối cùng được gửi đến Hoa Kỳ. Không phải ngẫu nhiên mà ngay sau chuyến công du Việt Nam của ông Biden mà Hà Nội mời tổng thống Nga đến thăm. Khi mời ông Putin, Hà Nội muốn đánh dấu sự khác biệt và tự chủ trong quyết định đối với Hoa Kỳ, đồng thời khẳng định rằng Việt Nam không đi theo chương trình hành động của Washington.Tất cả những yếu tố trên cho phép nghĩ rằng chuyến công du của tổng thống Nga sẽ diễn ra khi Hà Nội và Matxcơva thấy có lợi, dù là về mặt đối ngoại, đối nội, quân sự hay bất kỳ lý do nào khác và có thể là vào năm 2024.RFI : Trung Quốc, nước không tham gia Quy chế Roma, đã trải thảm đỏ đón “thượng khách” Putin tại Diễn đàn Vành Đai và Con Đường. Liệu mối quan hệ song phương được tăng cường có tác động đến mối quan hệ với Việt Nam ? Laurent Gédéon : Người ta thấy chính quyền Nga thường chủ trương trung lập về mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam và những cạnh tranh giữa hai nước này ở Biển Đông. Nhìn chung, Matxcơva không lên án những hành động của Hải Quân và hải cảnh Trung Quốc, hai lực lượng vẫn thường có sự cố với tầu tuần tra và tầu cá Việt Nam trong những năm gần đây.Nga phản đối quốc tế hóa xung đột ở Biển Đông, như vậy là đứng về lập trường của Trung Quốc vì nước này cũng phản đối. Luận điểm này có thể khiến Hà Nội khó xử, thêm vào đó là Nga và Trung Quốc gia tăng hợp tác trong lĩnh vực quân sự, chẳng hạn các cuộc diễn tập hải quân thường xuyên giữa hạm đội Nga và Trung Quốc.Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là Nga được lợi khi chú ý đến mối quan hệ với Hà Nội vì Việt Nam cũng là một trong những đối thủ cạnh tranh quan trọng của Trung Quốc ở trong vùng. Do đó, Matxcơva có thể dựa vào mối quan hệ với Hà Nội để hạn chế nguy cơ đối đầu trực diện với Bắc Kinh. Nhìn vào mối quan hệ không cân bằng về tổng thể giữa Trung Quốc và Nga, việc này không hẳn có lợi cho Nga về lâu dài. Do đó, Matxcơva có lợi khi đa dạng hóa các liên minh và các điểm hỗ trợ trong khu vực. Với chất lượng của mối quan hệ chặt chẽ Việt Nam và Liên bang Nga, rõ ràng Hà Nội là đối tác có chủ đích của Matxcơva. Do đó, trong những điều kiện hiện nay, Việt Nam không có gì phải lo trước sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Nga.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
10/30/2023 • 10 minutes, 1 second
Giới luật sư Pháp Việt và hợp tác về bảo vệ môi trường
Vào giữa tháng 7 vừa qua, một phái đoàn Pháp, trong đó có bà Valérie Verdier, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển, cùng với ông Bruno David, Chủ tịch bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia, đã đến thăm Việt Nam. Đây là một trong những hoạt động mới nhất trong khuôn khổ hợp tác trong lĩnh vực môi trường giữa hai nước Pháp và Việt Nam. Theo báo chí trong nước, trong cuộc gặp giữa phái đoàn Pháp với thứ trưởng bộ Tài Nguyên và Môi trường Việt Nam Lê Công Thành, bà Valérie Verdier cho biết, thời gian qua, nhiều chuyên gia của Viện nghiên cứu phát triển đã đến Việt Nam nghiên cứu lĩnh vực môi trường. Cũng trong buổi làm việc, các nhà nghiên cứu khoa học của phái đoàn Pháp bày tỏ mong muốn được tham gia hợp tác lâu dài với bộ Tài Nguyên và Môi trường, nhất là trong việc triển khai quan hệ Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) và các cam kết toàn cầu về ứng phó biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã tham gia. Chính phủ Pháp đã cam kết sẽ hỗ trợ 50 triệu đô la Mỹ cho các nước đang phát triển tham gia JETP, hướng tới các giải pháp năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính.Trong công cuộc hợp tác Pháp-Việt về bảo vệ môi trường, nay cũng có sự tham gia của giới luật sư hai nước. Trong hai ngày 7 và 8/07/2023, tại khu Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục Liên ngành, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, đã diễn ra một cuộc hội thảo về môi trường quy tụ các luật sư và chuyên gia hai nước Việt Nam và Pháp. Trong số các luật sư Việt Nam dự hội thảo, có luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng luật sư Hoàng Việt Luật, Sài Gòn. Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang cho biết về nội dung hội thảo: “Đó là những vấn đề liên quan đến môi trường, mà ở đây các chuyên gia nói nhiều về rác thải công nghệ như thiết bị máy tính, điện thoại, khí CO2 và cả đường truyền internet, cũng như việc tải các dữ liệu thông qua đường truyền này làm nhiệt độ tăng, dẫn đến biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến môi trường.Đây là những rác thải của công nghệ cao do các nước phát triển họ tìm hiểu, rồi tìm cách hạn chế các loại ô nhiễm này. Ở Việt Nam thì chưa nghĩ đến những loại rác thải công nghệ mới này. Thường thì môi trường liên quan đến điều kiện cuộc sống và ý thức con mỗi con người, ở Việt Nam thì còn khó khăn, chưa phát triển và đặc biệt là người dân chưa được giáo dục nhiều ý thức về môi trường. Tôi nhận thấy hiện tại ở Việt Nam, người gây ra ô nhiễm môi trường cũng chưa biết mình vi phạm luật môi trường, và người bị xâm hại cũng chẳng biết mình bị xâm hại, dù điều này pháp luật đã quy định.Vì vậy, buổi hội thảo này sẽ đóng góp vào ý thức về bảo vệ môi trường, đặc biệt là ô nhiễm của rác thải công nghệ mới.” Cũng theo luật sư Hoàng Cao Sang, trong hội thảo tại Quy Nhơn, phía luật sư Pháp đã trao đổi những kinh nghiệm về thi hành luật pháp trong vấn đề bảo vệ môi trường: “Các luật sư Pháp đưa ra các chính sách, các quy định của pháp luật của Pháp về môi trường như Luật REEN ngày 15/11/2021 nhằm giảm tác động đến môi trường của công nghệ kỹ thuật số ở Pháp; Chính sách khí hậu của Âu Châu; Nghĩa vụ đối với môi trường của các quốc gia; Sự tỉnh táo trong thời đại kỹ thuật số; Đòn bẩy cho các hành động pháp lý; Từ nhận thức đến hành động và đặc biệt là cải thiện điều kiện sống để người dân ý thức hơn về môi trường.Đây là những bước sơ khởi ban đầu của các luật sư Pháp trao đổi về môi trường tại đây, nên họ chưa có những hỗ trợ cụ thể. Nhưng tôi tin rằng qua lần hội thảo này, họ sẽ có những bước tiếp theo để những vấn đề mà họ đưa ra trong buổi hội thảo này được đi vào thực tế. Sau buổi hội thảo, chúng tôi cũng đã đề nghị các luật sư Pháp hỗ trợ và hết hợp cho nhiều chương trình khác nhau sau này, và họ rất vui vẻ nhận lời. Đặc biệt, trong chương trình này có luật sư Ngô Thị Mỹ Hạnh và Giáo sư Trần Thành Vân là những người Pháp gốc Việt, những người trí thức thành công tại Pháp và họ luôn có tâm niệm đóng góp cho quê hương Việt Nam. Tôi tin rằng họ sẽ có nhiều hỗ trợ cho Việt Nam trong nhiều vấn đề.”Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, chủ tịch Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam, cho biết:" Lần này là lần thứ ba chúng tôi đến thành phố Quy Nhơn vì hai nhà khoa học Trần Thanh Vân và Lê Kim Ngọc, sáng lập viên hội "Gặp gỡ Việt Nam" năm 1993 và Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục Liên ngành, mời chúng tôi đến. Lần trước, khi đến Trung tâm tôi có gặp thứ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam. Họ có mời tôi đến nói về chính sách chống ô nhiễm từ các túi nhựa dùng một lần. Họ thấy các luật sư Pháp quan tâm đến vấn đề môi trường ở Việt Nam.Lần này được hai nhà khoa học mời đến là cơ hội để các nhà khoa học và các luật gia gặp nhau. Chúng tôi tổ chức hội thảo để đề cập đến thách thức môi trường và cải cách pháp lý. Nhà khoa học là Hà Dương Minh, cũng là gốc Việt, nói về chuyển đổi năng lượng. Các luật sư thì nói về chính sách về nước của châu Âu, về ô nhiễm tiếng ồn. Luật sư Đặng Thị Ngọc Hạnh, chủ nhiệm đoàn luật sư Huế, cũng có phát biểu. Hai ngày hội thảo đó rất phong phú và mọi người đến đông đủ để chia sẽ và trao đổi với nhau về kinh nghiệm, ý kiến, thông tin. Tôi sẽ đăng những bài phát biểu của tất cả các chuyên gia trên trang mạng của Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục Liên ngành, vì đấy là nơi mà họ tập trung mỗi năm."Cũng theo lời luật sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, Quy Nhơn, với Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục Liên ngành, sẽ nơi lý tưởng để phát triển các giải pháp cho môi trường:" Chúng tôi dự trù sẽ tiếp tục các chương trình thông tin sao cho người dân Việt Nam và các công ty đều có ý thức để tránh và giảm bớt ô nhiễm ở Việt Nam, tiến đến một môi trường xanh và tránh những thảm nạn như lũ lụt, nước dâng cao ở vùng sông Cửu Long.Chúng tôi nghĩ là ở Quy Nhơn có nhiều cơ hội những giải pháp cho môi trường, vì ở đấy, hai nhà khoa học Trần Thanh Vân và Lê Kim Ngọc đã thành lập ra một trung tâm khám phá khoa học độc nhất ở Việt Nam. Nên khai thác trung tâm khoa học đó và mỗi khi có thể được thì cho học sinh, sinh viên, người dân đến Quy Nhơn, cũng như các đoàn trao đổi quốc tế đến để giúp ý kiến, kinh nghiệm cho Việt Nam".Kinh nghiệm của các luật sư Pháp càng cần thiết trong bối cảnh Việt Nam còn gặp nhiều vấn đề trong việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, theo luật sư Hoàng Cao Sang: “Về cơ bản, Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam cũng đã có những quy định để bảo vệ môi trường, nhưng vẫn chưa chi tiết hóa các trường hợp cụ thể, hoặc có quy định nhưng không áp dụng được bởi những vướng mắc của luật khác. Chính vì các vướng mắc đó nên pháp luật không đi vào cuộc sống được. Đơn giản như tiếng ồn. Ở Việt Nam đi đâu cũng thấy tiếng ồn. Tiếng ồn từ các công trình của các doanh nghiệp, và tiếng ồn của cả các cá nhân gây ra trong cuộc sống hàng ngày.Có một số trường hợp không chịu được tiếng ổn mà người ta phải vác súng, vác dao bắn/đâm chết người gây ra tiếng ồn, nhưng có mấy ai bị xử phạt vì gây ra tiếng ồn đâu. Hoặc xả khí/rác thải khắp nơi nhưng có mấy doanh nghiệp bị xử phạt đâu?Bên cạnh những doanh nghiệp Việt Nam, còn có những tập đoàn lớn của nước ngoài vào đầu tư cũng xả thải ra môi trường, nhưng rất ít khi bị phát hiện và rất ít khi bị xử phạt.Thứ nữa là mức phạt chưa nghiêm, nên việc xả thải của các doanh nghiệp/người dân vẫn tiếp diễn, bất chấp các quy định của pháp luật.Ngoài vấn đề luật pháp, tôi còn cho rằng phải cải thiện và nâng cấp điều kiện sống, phải phát triển lên thì mới hạn chế được việc gây ảnh hưởng đến môi trường."
10/23/2023 • 9 minutes, 31 seconds
“Predator Files”: Phần mềm Việt Nam mua bị nghi dùng để do thám nhiều lãnh đạo thế giới
Nhiều nhà báo và chính trị gia tại châu Âu đã bị do thám thông qua một tài khoản Twitter (@Joseph_Gordon16) có liên hệ chặt chẽ với Việt Nam và được cho là hoạt động cho chính quyền Việt Nam, hoặc một số nhóm lợi ích Việt Nam. Phát hiện này được tổ chức Ân Xá Quốc Tế ( Amnesty International ) cùng với nhiều cơ quan truyền thông châu Âu thuộc tổ hợp Hợp tác Điều tra châu Âu (European Investigative Collaborations, EIC) đồng loạt công bố ngày 09/10/2023 trong khuôn khổ vụ « Predator Files ». Trong thông cáo ngày 09/10, Ân Xá Quốc Tế nhấn mạnh đến sai sót về quản lý bán phầm mềm do thám (1). Liên minh các doanh nghiệp phát triển và bán phần mềm do thám Predator khẳng định là có trụ sở ở Liên Hiệp Châu Âu. Các nhà báo, chính trị gia bị nhắm đến cũng ở trong khối 27 nước, trong khi mỗi nước thành viên Liên Âu phải chịu trách nhiệm kiểm tra việc bán và chuyển giao công nghệ theo dõi.Trường hợp của Việt Nam được nhiều báo đồng loạt đưa tin ngày 09/10 (2). Nhà báo điều tra Yann Philippin của báo mạng độc lập Pháp Mediapart tham gia cuộc điều tra của EIC, song song với tổ chức Amnesty International, là tác giả bài báo « Predator Files » : des élus français, européens et américains visés par le logiciel espion (Vụ « Predator Files » : Nhiều dân biểu Pháp, châu Âu và Mỹ bị phần mềm gián điệp nhắm đến). Theo đó, « Việt Nam đã sử dụng phần mềm gián điệp Predator, do tập đoàn Nexa bán, để thực hiện âm mưu do thám thông qua mạng Twitter (hiện là mạng X). Dân biểu châu Âu Pierre Karleskind của Pháp bị nhắm đến, cũng như đài truyền hình France 24, nữ chủ tịch Nghị Viện Châu Âu, nhiều dân biểu Mỹ, nhà báo và nhà ngoại giao ». Nhà báo Yann Philippin dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn ngày 11/10/2023.RFI : Ông tham gia điều tra về vụ « Predator Files » do tổ hợp Hợp tác Điều tra châu Âu - EIC điều phối cùng với tổ chức Ân Xá Quốc Tế. Xin ông giải thích mục đích của cuộc điều tra này ! Nhà báo Yann Philippin : Cuộc điều tra tiết lộ lần đầu tiên từ bên trong những phương pháp của một liên minh doanh nghiệp thiết kế và bán các hệ thống giám sát thâm nhập, trong đó có Predator, một phần mềm gián điệp giúp đánh cắp được hết dữ liệu của điện thoại bị xâm nhập (hack) và sử dụng điện thoại đó làm công cụ gián điệp, vì Predator có khả năng kích hoạt từ xa micro, máy ảnh, máy quay phim và như vậy có thể ghi hình mọi người hoặc thu âm những gì họ nói mà không hay biết. Cuộc điều tra « Predator Files » đã tiết lộ cách làm của hai công ty Intellexa và Nexa. Intellexa là công ty thiết kế phần mềm gián điệp Predator, còn Nexa là một công ty Pháp, từng liên kết với Intellexa và giúp Intellexa bán phần mềm này ra nước ngoài, trong đó có Việt Nam. RFI : Dựa vào những dấu hiệu nào mà nhóm điều tra kết luận rằng có khả năng Việt Nam có liên quan đến các chiến dịch thâm nhập, do thám ? Yann Philippin : Cuộc điều tra của chúng tôi mang lại nhiều bằng chứng vững chắc. Chúng tôi phối hợp với Security Lab của tổ chức Ân Xá Quốc Tế. Cuộc điều tra được tiến hành trên hai phương diện : kỹ thuật và kinh tế. Tổ chức Ân Xá Quốc Tế tiến hành điều tra về mặt kỹ thuật. Họ đã phân tích các máy chủ, có nghĩa là các máy tính chứa các trang web nhằm truy cập, hack điện thoại. Những máy chủ này được đặt ở nhiều nơi do công ty Intellaxa quản lý cho nhiều khách hàng, trong đó có Việt Nam. Predator hoạt động như sau : Người ta gửi một đường link, thường là bắt chước một bài báo nào đó, người xem thấy quan tâm, nhấn vào đó và sẽ bị đưa đến máy chủ chứa trang web giả và máy chủ sẽ gửi phần mềm gián điệp vào điện thoại của người đó để thâm nhập. Tổ chức Ân Xá Quốc Tế điều tra rất tỉ mỉ về cơ sở kỹ thuật thâm nhập điện thoại với phần mềm Predator này. Họ xác định được rằng một phần cơ sở hạ tầng kỹ thuật này có liên quan đến Việt Nam, một mặt nhờ vào hoạt động tin học của những máy chủ đó, mặt khác là do các đối tượng bị nhắm đến có liên quan đến Việt Nam, ví dụ các nhà đối lập Việt Nam. Song song đó là cuộc điều tra kỹ thuật, với độ chắc chắn cao, cho thấy những máy chủ gửi virus độc đó là dành cho Việt Nam. Báo mạng Mediapart và tổ hợp Hợp tác Điều tra châu Âu - EIC của chúng tôi đã nhận được nhiều tài liệu mật chứng minh rằng công ty Pháp Nexa bán phần mềm Predator cho chính phủ Việt Nam, cụ thể là cho bộ Công An. RFI : Theo các tài liệu đó, thỏa thuận mua bán được đúc kết vào thời điểm nào ? Yann Philippin : Thỏa thuận mua bán này được ký chính xác ngày 31/12/2020. Sau đó còn phải cần thời gian vận chuyển, lắp đặt thiết bị, rất có thể Predator bắt đầu hoạt động cho chính quyền Việt Nam vào khoảng cuối năm 2021. RFI : Theo báo cáo của tổ chức Ân Xá Quốc Tế và bài báo của nhiều cơ quan truyền thông châu Âu tham gia điều tra, nhiều chính trị gia châu Âu, Mỹ, Đài Loan và một số nhà đối lập Việt Nam dường như bị nhắm tới ! Yann Philippin : Cuộc tấn công được tổ chức Ân Xá Quốc Tế, cũng như nhiều tổ chức khác như Citizen Lab hay Google, quy cho Việt Nam. Cách tấn công cũng rất thú vị vì sử dụng mạng Twitter, nay là mạng X. Thông thường, những vụ tin tặc kiểu này thường nhắm đến một cá nhân cụ thể, như gửi tin nhắn chứa mã độc, hoặc gửi tin qua WhatsApp. Thế nhưng họ lại để công khai trên Twitter khi sử dụng tài khoản giả mang tên @Joseph_Gordon16 trả lời tin nhắn Twitter của đối tượng bị nhắm đến. Nếu truy cập bằng điện thoại và nhấn vào đường link đó thì điện thoại bị nhiễm mã độc và bị truy cập. Chính nhờ vậy mà chiến dịch đã bị phát hiện bởi vì cách làm không được kín đáo cho lắm, do họ sử dụng Twitter, mà các tin nhắn trên Twitter đều công khai. RFI :Thành phần bị nhắm đến là những ai và nhằm mục đích gì ? Yann Philippin : Chúng tôi đã xác định được ba kiểu đối tượng bị nhắm đến. Thứ nhất là một số nhà đối lập với chế độ Việt Nam như Lê Trung Khoa, sống ở Đức, rất nổi tiếng và phụ trách trang thông tin Thời báo được người Việt sống ở trong và ngoài nước biết nhiều. Việt Nam định hack điện thoại của ông qua chiến dịch này. Ngoài ra, còn có nhiều tổ chức, nhà báo Việt Nam hoặc một số tổ chức chính trị ở nước ngoài cũng bị chiến dịch này nhắm đến. Đối tượng thứ hai là Liên Hiệp Châu Âu với 12 cơ quan và cá nhân bị nhắm đến, trong số đó có nhiều chính trị gia cấp cao, Ủy Ban Châu Âu, nữ chủ tịch Nghị Viện Châu Âu và ông Pierre Karleskind, chủ tịch Ủy ban đánh bắt (PECH) của Nghị Viện Châu Âu. Sau cuộc điều tra, chúng tôi suy luận rằng có lẽ Việt Nam lo lắng vì Liên Hiệp Châu Âu đã phạt « thẻ vàng » về tình trạng đánh bắt bất hợp pháp của Việt Nam, vì Bruxelles cho rằng Việt Nam chưa cố gắng đủ để chống tình trạng đó. Hiện giờ chưa có hậu quả, nhưng nếu vấn đề không được giải quyết thì « thẻ vàng » có thể sẽ thành « thẻ đỏ », đồng nghĩa với việc cấm xuất khẩu hải sản sang thị trường Liên Âu. Đó sẽ là một rủi ro lớn cho Việt Nam. Mọi người đều biết rằng đánh bắt là một nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Vì thế có thể là Việt Nam muốn do thám một số chính trị gia và các cơ quan Liên Hiệp Châu Âu phụ trách đánh bắt để nắm bắt tình hình và xem liệu các biện pháp trừng phạt hoặc cảnh cáo có tiếp tục hay không và liệu có cách nào để hủy « thẻ vàng » đó. Đối tượng cuối cùng trong đợt do thám mà chúng tôi xác định được có liên quan đến Biển Đông. Chúng ta biết đó là một khu vực phức tạp, đầy căng thẳng, nhất là liên quan đến chủ quyền đối với nhiều hòn đảo trong vùng, giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan và Philippines. Đợt tấn công nhắm đồng thời vào nhiều chính trị gia, cũng như chuyên gia, nhà báo liên quan đến địa-chính trị hoặc Biển Đông. Mục tiêu quan trọng nhất là tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn. Nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ Mỹ cũng bị nhắm đến trong cuộc tấn công nhắm vào chính quyền Đài Loan. RFI : Các « nạn nhân » phản ứng như thế nào về kết quả điều tra của tổ hợp Hợp tác Điều tra châu Âu - EIC và Ân Xá Quốc Tế ? Yann Philippin : Chúng tôi nhận được phản ứng của một vài nạn nhân. Chuyện khá phức tạp vì phần lớn các chính trị gia không muốn bình luận, phần nào vì lý do an ninh. Phản ứng mạnh nhất là của nhà phụ trách trang Thời báo ở Đức. Ông ấy kinh sợ vì bị nhắm đến. May là ông ấy không nhấn vào đường dẫn. Ông ấy giải thích với chúng tôi là nhiều người hợp tác với trang Thời báo đã phải lấy bút danh để không bị nhắm đến, vì nếu danh tính thật bị lộ và chính phủ Việt Nam biết thì có thể họ sẽ gặp nhiều hậu quả kinh khủng. Ông ấy lo ngại và thấy bất thường khi Liên Hiệp Châu Âu đã không ngăn được việc bán phần mềm gián điệp Predator cho Việt Nam, một Nhà nước chuyên quyền, một quốc gia không có dân chủ. Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận được phản hồi mạnh của dân biểu châu Âu Pierre Karleskind, thuộc đảng của tổng thống Pháp, rằng vụ tấn công tin tặc mà ông ấy là nạn nhân là điều hoàn toàn bất thường. Ông đã cho kiểm tra điện thoại thì thấy là điện thoại không bị nhiễm độc. Theo ông, dù vụ tấn công bất thành nhưng vẫn là chuyện đáng xấu hổ. Ông cho biết là có ý định triệu mời đại sứ Việt Nam bên cạnh Liên Hiệp Châu Âu lên để đề nghị giải thích. RFI : Chiến dịch tấn công và phần mềm Predator còn hoạt động không ? Yann Philippin : Không thể biết được là phần mềm đó còn hoạt động hay không. Thường thì trong mọi cuộc điều tra báo chí, người ta vẫn gửi câu hỏi cho những người có liên quan trong các bài báo trước khi công bố. Chúng tôi đã gửi câu hỏi đến chính phủ Việt Nam, nhưng họ không hồi âm. Chúng tôi cũng gửi câu hỏi tới Intellexa, tức là công ty khai thác phần mềm Predator, nhưng cũng không nhận được câu trả lời. Tuy nhiên, chúng tôi có câu trả lời, có thể nói là « gián tiếp », đó là chúng tôi phát hiện ra rằng phần lớn các máy chủ được dùng để phát tán virus thông qua phần mềm Predator bỗng dưng bị đóng hết, ngay sau khi chúng tôi gửi câu hỏi đến. Có thể là do bị phát hiện nên họ lo ngại và đóng các máy chủ đó. Có thể là họ tạm ngừng hoạt động, nhưng cũng có thể là họ lắp đặt các máy mới, cơ sở mới và sẽ tiếp tục trong tương lai. Còn chiến địch mà chúng tôi phát hiện thì đã chấm dứt, bởi vì tài khoản Twitter @Joseph_Gordon16 không còn tồn tại, tất cả đã bị xóa. Nhưng trong tương lai, hoàn toàn có thể có những vụ tấn công khác, bằng các phương tiện khác và có thể kín đáo hơn. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà báo điều tra Yann Philippin, báo mạng Pháp Mediapart. (1) Theo báo cáo của Amnesty International, « […] Từ tháng 02 đến tháng 06/2023, ít nhất 50 tài khoản thuộc 27 cá nhân và 23 định chế bị công khai nhắm đến trên các nền tảng mạng xã hội X (trước là Twitter) và Facebook. Vũ khí giám sát mạng được sử dụng để nhắm đến các tài khoản này có tên là Predator, một phần mềm gián điệp thâm nhập do liên minh Intellexa phát triển và kinh doanh. Khẳng định là « có trụ sở tại Liên Hiệp Châu Âu và tuân theo quy định của châu Âu », liên minh này được hình thành từ một nhóm các công ty phức tạp và liên tục thay đổi, chuyên thiết kế và bán các sản phẩm giám sát, bao gồm cả phần mềm gián điệp Predator […] ». (2) Trang Mediapart : « Predator Files » : des élus français, européens et américains visés par le logiciel espion (Vụ « Predator Files » : Nhiều dân biểu Pháp, châu Âu và Mỹ bị phần mềm gián điệp nhắm đến) Trang Le Soir của Bỉ : Predator Files : les manœuvres du Vietnam pour espionner l’Europe, dont la présidente du Parlement européen (Predator Files : các cách Việt Nam do thám châu Âu, trong đó có nữ chủ tịch Nghị Viện Châu Âu). Trang mạng Đức Spiegel : Wie Vietnam eine deutsch Botschafterin zu hacken versuchte (Việt Nam đã cố hack đại sứ Đức như thế nào). Nhật báo Pháp Le Monde : Logiciel espion Predator : le Vietnam a tenté de pirater des journalistes et des responsables politiques en Europe (Phần mềm gián điệp Predator : Việt Nam cố tìm cách tấn công các nhà báo và quan chức chính trị ở châu Âu). Trang Capital : «Predator Files» : des élus européens victimes de tentatives d'espionnage par le Vietnam (Vụ «Predator Files» : nhiều dân biểu châu Âu là nạn nhân âm mưu do thám do Việt Nam thực hiện). Trang RFI : Le Vietnam au cœur d’une campagne d’espionnage visant des personnalités américaines(Việt Nam trong tâm điểm một chiến dịch do thám nhắm vào nhiều nhân vật Mỹ). Trang Washington Post : Vietnam tried to hack U.S. officials, CNN with posts on X, probe finds (Việt Nam tìm cách hack quan chức Mỹ, CNN bằng các bài đăng trên X, theo phát hiện của một cuộc điều tra).
10/16/2023 • 9 minutes, 35 seconds
Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông như nào ?
Việt Nam khẳng định chủ quyền ở Biển Đông bằng cách nạo vét và nâng cấp một số tiền đồn mà Hà Nội kiểm soát. Đến cuối năm 2022, Việt Nam đã « mở rộng việc bồi đắp tại bốn thực thể và nạo vét mới tại năm thực thể khác… tạo ra khoảng 170 héc ta đất mới và nâng tổng diện tích mà Việt Nam đã khai hoang trong thập kỷ qua lên 220 héc ta », theo Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington. Tuy nhiên, theo AMTI, « quy mô của công việc bồi đắp, mặc dù vẫn còn thua xa so với hơn 3.200 héc ta đất do Trung Quốc tạo nên từ năm 2013 đến năm 2016, nhưng mức độ lớn hơn đáng kể so với những nỗ lực trước đây của Việt Nam và thể hiện một động thái lớn nhằm củng cố vị thế của mình ở Trường Sa ».Trong khi Trung Quốc bị chỉ trích gay gắt vì gia cố các thực thể do nước này chiếm đóng ở Biển Đông thì hoạt động bồi đắp, củng cố của Việt Nam ít bị chú ý hơn vid có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, liệu hoạt động được cho là bảo vệ chủ quyền này có phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) ? Việt Nam hiện kiểm soát những thực thể nào và làm thế nào để bảo vệ chủ quyền ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École Normale supérieure de Lyon) tóm lược tình hình trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Trường Sa, Việt Nam có tranh chấp chủ quyền với các bên Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia. Xin ông cho biết là trên thực tế Việt Nam hiện quản lý những thực thể nào ở quần đảo Trường Sa ? Laurent Gédéon : Việt Nam duy trì sự hiện diện thực sự trên 29 đảo lớn, nhỏ ở Biển Đông, bao gồm 6 đảo, 15 đá ngầm, 6 bãi và 2 bãi cạn. Ngoài ra, Hà Nội cũng kiểm soát trên 16 đá ngầm nhưng không chiếm đóng thực và lâu dài. Như vậy, sự hiện diện của Việt Nam là lớn nhất về số lượng và chứng minh là Việt Nam có chủ quyền trong khu vực.Để so sánh, Trung Quốc kiểm soát 7 đảo trong quần đảo Trường Sa, Đài Loan 2 đảo trong đó có đảo Ba Bình (Itu Aba) lớn nhất, Philippines kiểm soát 11, Malaysia 7 và Brunei 1. Việt Nam đòi hỏi chủ quyền nhiều nhất đối với quần đảo này bởi vì Hà Nội cho rằng hầu hết các đảo thuộc về chủ quyền của mình. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với 6 trên 7 đảo do Malaysia kiểm soát, 7 đảo do Trung Quốc kiểm soát, 2 đảo do Đài Loan kiểm soát và 11 đảo do Philippines kiểm soát.Ngược lại, trong số những đảo do Việt Nam kiểm soát, Manila đòi chủ quyền đối với 20, đó là những đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, Bắc Kinh đòi chủ quyền đối với toàn bộ 29 đảo mà Việt Nam kiểm soát, Malaysia đòi hai. Còn Đài Loan, dù tuyên bố chủ quyền theo bằng chứng lịch sử giống như lập luận của Trung Quốc, nhưng trên thực tế, Đài Bắc tỏ ra kín đáo về chủ đề này.Cuối cùng, phải nhắc đến một loạt bãi cạn tuy không bị chiếm nhưng thuộc ảnh hưởng trực tiếp với mức độ hiện diện khác nhau của Đài Loan, Malaysia, Việt Nam, Philippines, Trung Quốc. Chúng ta thấy là nhìn chung, Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Riêng ở Trường Sa, Việt Nam kiểm soát nhiều đảo nhất so với các nước khác.RFI : Việt Nam cũng âm thầm bồi đắp, củng cố các đảo và đá do Việt Nam quản lý. Việt Nam có những công trình gì trên những thực thể này ? Những công trình bồi đắp đó có phù hợp với luật biển quốc tế, cũng như phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ? Laurent Gédéon : Những họa động cải tạo thường xuyên được tiến hành từ khoảng 10 năm nay đối với các điền đồn đảo của Việt Nam cho thấy quyết tâm của Hà Nội biến những căn cứ này trở nên vững chắc hơn trước một cuộc tấn công hoặc hoặc bị phong tỏa và tăng cường năng lực răn đe trước đe dọa tấn công từ các công trình của Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột.Việt Nam có khoảng 50 tiền đồn trải dài trên 29 đảo lớn, nhỏ. Những tiền đồn này lại được chia thành ba loại : các đảo nhỏ đồn trú, các công trình bằng bê tông trên mỏm các bãi cạn, các nhà giàn biệt lập (DK) dựng trên đá ngầm, còn được gọi là Dịch vụ-Khoa học kỹ thuật.Nhìn chung, trên hầu hết các đảo do Việt Nam kiểm soát, người ta thấy các công trình hạ tầng sau : hệ thống phòng không, hệ thống bảo vệ bờ biển, boong-ke, sân bay trực thăng, hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, trạm radar (radome) tiếp nhận và phân tích sóng điện tử, các tòa nhà hành chính, hệ thống đường hầm.Những công trình này thường dẫn đến việc phải mở rộng diện tích của đảo hoặc đá ngầm bằng cách bồi đắp. Về điểm này, Việt Nam đi theo bước của Trung Quốc, nước cũng tiến hành bồi đắp các đảo nhỏ mà họ kiểm soát, cho dù Việt Nam tiến hành ở quy mô nhỏ hơn. Năm 2022, Việt Nam đã thúc đẩy và mở rộng các công trình bồi đắp và hiện có tổng diện tích khoảng 2,2 km² ở Trường Sa. Để so sánh, tổng diện tích bồi đắp của Trung Quốc hiện khoảng 13 km². Đài Loan và Phillipines cũng có các hoạt động tương tự nhưng ở quy mô nhỏ hơn.Thông qua những hoạt động bồi đắp này, Bắc Kinh cũng như Hà Nội tìm cách tăng diện tích các đảo mà họ kiểm soát bởi ít nhất hai lý do sau. Một mặt là để tăng cường khả năng phòng thủ và tấn công của những vùng đất này. Mặt khác, tạo các đảo nhân tạo mà quy chế có thể sẽ được công nhận trong tương lai trong trường hợp luật quốc tế thay đổi.Về mặt luật pháp quốc tế, chúng ta thấy là Tòa Án Trọng Tài Thường Trực, trong phán quyết ngày 12/07/2016, nêu rõ : « Tòa án nhận thấy các hoạt động cải tạo đất ở quy mô lớn và xây dựng các đảo nhân không phù hợp với nghĩa vụ của một quốc gia thành viên trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể khắc phục được đối với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và tiêu hủy bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông vốn là một phần tranh chấp giữa các Bên ».Phán quyết các thẩm phán để ngỏ khả năng Việt Nam cũng có thể bị chỉ trích giống như Trung Quốc vì đã tiến hành hoạt động bồi đắp gây hậu quả cho môi trường bởi vì những hoạt động đó thay đổi lâu dài hiện trạng ban đầu của các đảo. Để Việt Nam được hưởng lợi ngoài những lợi ích chiến lược từ những công trình đã thực hiện thì sẽ phải cần đến sự thay đổi của luật pháp quốc tế trong khi sự thay đổi đó hiện giờ chưa nằm trong chương trình nghị sự.RFI : Trung Quốc bị chỉ trích mạnh mẽ vì bồi đắp và quân sự hóa các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa. Tuy nhiên, các nước có tranh chấp ở trong vùng, trong đó có Việt Nam, cũng bồi đắp. Có lý do nào giải thích cho việc những nước này ít bị chỉ trích hơn, hoặc ít bị để ý hơn ? Laurent Gédéon : Theo tôi, có nhiều lý do có thể giải thích cho việc Việt Nam, cũng như là Philippines hoặc Đài Loan, ít bị chỉ trích hơn về các hoạt động quân sự hóa và bồi đắp các đảo so với Trung Quốc.Trước tiên là việc Trung Quốc hiện giờ bị coi là bá chủ ở trong vùng. Bắc Kinh bị cáo buộc có những tham vọng bành trướng. Tâm lý này càng được củng cố bởi Trung Quốc thường xuyên tuyên bố những yêu sách lãnh thổ hoặc công bố các tài liệu chính thức không chút úp mở nào, ví dụ bản đồ biên giới mới nhất của Trung Quốc đã khiến nhiều nước láng giềng ở Biển Đông phản đối. Trong bối cảnh đó, mọi hoạt động của Trung Quốc trên thực địa đều bị đánh giá là nhằm mục tiêu tấn công.Tiếp theo, Việt Nam vẫn luôn được coi là bên bị đe dọa, chứ không phải là mối đe dọa, bất chấp những tuyên bố hợp pháp hóa yêu sách chủ quyền của Việt Nam. Sự bất cân xứng chiến lược giữa Trung Quốc và Việt Nam khiến người ta tin rằng các công trình do Việt Nam thực hiện là nằm trong khuôn khổ tự vệ chính đáng và ngăn cản những tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Do đó, hành động của Việt nam được xem như có tính chính đáng về mặt đạo đức với báo chí cũng như với giới phân tích.Thiện chí của dư luận đối với Việt Nam được củng cố bởi thực tế Việt Nam là đối tượng được Hoa Kỳ chú ý về mặt địa-chính trị, nhân tố gián tiếp nhưng đóng vai trò lớn trong cuộc xung đột này. Đối với Washington, Hà Nội là quân bài quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà bằng chứng mới nhất là chuyến thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam. Bối cảnh này cũng tạo những kết quả tích cực cho hình ảnh chung của Việt Nam ở nước ngoài.Dù những yếu tố này là không thể bàn cãi nhưng vẫn có hai lưu ý, theo tôi, là quan trọng. Thứ nhất, cần phải nhớ là những công trình này mang lại giá trị thực về mặt chiến lược cho các đảo và đá mà các nước kiểm soát. Vấn đề đặt ra là việc sử dụng chúng giả sử trong trường hợp sức mạnh Trung Quốc suy giảm, ví dụ sau một cuộc xung đột trong vùng mà Trung Quốc xử lý kém. Liệu những công trình đó có thể phục vụ cho Việt Nam để áp đặt sự chia sẻ vùng ảnh hưởng đối với Philippines hay Malaysia không ? Câu hỏi này cần được đặt ra.Lưu ý thứ hai là bằng cách thay đổi cấp độ phân tích và thoát khỏi cách tiếp cận thuần túy khu vực, chúng ta có thể hiểu các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông như một phần của cơ chế rộng hơn, đó là chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Cách lập luận này khiến chúng ta coi những hành động này (bồi đắp…) như là những yếu tố của một chiến lược rộng hơn để bảo vệ Biển Đông. Nhìn từ quan điểm của Trung Quốc, việc đó được coi là xây dựng một chuỗi phòng thủ. Lập luận này không chỉ làm thay đổi bản chất của việc Trung Quốc xây dựng các cơ sở hạ tầng làm biến đổi nguyên trạng ở Biển Đông mà nếu một ngày nào đó, các quốc gia trong muốn tiến hành đàm phán với Trung Quốc thì cũng cần phải tính đến yếu tố này.RFI : Trong trường hợp Việt Nam và Philippines đạt được một thỏa thuận song phương giải quyết tranh chấp để cùng đối phó với Trung Quốc, Bắc Kinh có để yên không bởi vì họ đòi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông ? Liệu Trung Quốc có khả năng cố tình tạo xô xát trên biển để răn đe hai nước ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ là rất có thể là dù không phản đối nhưng Trung Quốc sẽ từ chối tham gia vào một giải pháp chung mà Việt Nam và Philippines đề xuất. Chúng ta thấy là Bắc Kinh thường xuyên ưu tiên các cuộc gặp song phương thay vì các cuộc đàm phán đa phương như trường hợp bế tắc của các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) từ năm 2002. Mối quan hệ song phương cho phép Trung Quốc gia tăng thế bất cân xứng với đối tác và áp đặt lập trường của họ. Vì thế, có rất ít khả năng Bắc Kinh tham gia vòng đàm phán ba bên với Hà Nội và Manila.Cũng có thể là Trung Quốc cảm thấy ở thế yếu trước bộ đôi Việt Nam - Philippines, hai nước này chắc chắn được Mỹ và Nhật Bản trực tiếp ủng hộ một mặt nhất định về ngoại giao. Trong những điều kiện này, chúng ta có thể giả định mà không sợ nhầm lẫn lớn, là Bắc Kinh sẽ sử dụng chiến lược đe dọa, như cách họ nhiều lần thể hiện đối với Việt Nam hoặc Philippines. Để làm được điều này, Trung Quốc có một lực lượng tấn công đáng kể thông qua đội đánh cá hiện vẫn đóng vai trò bình phong cho các hoạt động chiến lược của nước này ở Biển Đông. Dĩ nhiên, tình hình sẽ khác hoàn toàn nếu Trung Quốc suy yếu, bất kể lý do là gì, nhưng hiện giờ đây vẫn chỉ đơn thuần là một giả thuyết.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
10/9/2023 • 10 minutes, 38 seconds
Biển Đông : Việt Nam có chịu "nhượng" chủ quyền để cùng Philippines chống Trung Quốc ?
Philippines muốn đạt được một thỏa thuận với Việt Nam nhằm tăng cường hợp tác hàng hải ở Biển Đông. Đích thân tổng thống Marcos Jr. bày tỏ mong muốn này ngày 10/08/2023 trong buổi hội đàm chia tay với đại sứ Việt Nam mãn nhiệm Hoàng Huy Chung. Mục tiêu sâu xa là đoàn kết để đối phó với đối thủ mạnh hơn là Trung Quốc. Tuy nhiên, một thỏa thuận như vậy có thể sẽ kéo theo những vấn đề chủ quyền chồng lấn giữa hai nước trong vùng quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Nhiều chuyên gia nước ngoài từng gợi ý rằng Việt Nam, Philippines, Malaysia - ba nước chính có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông - nên ngồi lại đàm phán với nhau để hình thành một mặt trận chung, mạnh mẽ hơn để đối phó với Trung Quốc.Tuy nhiên, liệu Hà Nội có sẵn sàng xem lại những đòi hỏi chủ quyền không ? Những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam có phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ? Việt Nam được lợi gì khi tăng cường hợp tác hàng hải với Philippines ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, chồng lấn với một số đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Trước hết, xin ông giải thích Việt Nam và Philippines tranh chấp những gì ở Biển Đông ? Hai nước này có tranh chấp gì với bên thứ ba ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần xác định được là chúng ta đang bàn về điều gì khi nhắc đến Biển Đông, đặc biệt là về quần đảo Trường Sa. Đó là một quần đảo với nhiều bãi đá ngầm mà về nguyên tắc là không phù hợp với một đời sống tự túc tại đây. Sáu quốc gia tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hoặc một phần quần đảo, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Brunei và Malaysia. Để khẳng định chủ quyền, những nước này đưa quân đội đến đồn trú tại một hoặc nhiều đảo, trừ Brunei.Nước đòi chủ quyền nhiều nhất là Trung Quốc với “đường 9 đoạn”, khiến quốc gia này thành đối thủ với 5 nước còn lại. Việt Nam cũng tương tự, đòi chủ quyền với toàn bộ quần đảo, giống như Đài Loan. Nhìn chung ba nước khác tuyên bố chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.Liên quan đến Việt Nam và Philippines, cả hai nước cùng đòi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa nhưng với quy mô khác nhau. Như đã nói, Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Những tuyên bố này được thể hiện trong các bản đồ chính thức hoặc không chính thức được xuất bản trong nước và thông qua những tuyên bố thường xuyên của các lãnh đạo chính trị.Phía Philippines chỉ đòi hỏi chủ quyền đối với những hòn đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tình trạng này tạo ra sự chồng chéo về tham vọng của Hà Nội và Manila. Và các yêu sách chồng chéo này tạo ra sự cạnh tranh giữa hai nước.RFI : Phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye (PCA) áp dụng được như nào đối với những tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ? Laurent Gédéon : Để hiểu phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye liên quan như nào đến Việt Nam, cần phải nhắc lại là Hà Nội khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chủ yếu dựa trên những lập luận lịch sử, trong đó có kiến thức cổ xưa khẳng định sự tồn tại của hai quần đảo này là do ngư dân Việt Nam thường xuyên lui tới.Tuy nhiên, nếu như Việt Nam có thể chứng minh được rằng quần đảo Hoàng Sa được hoàng đế Gia Long trực tiếp quản lý vào năm 1816, sau đó được hoàng đế Minh Mạng xác nhận vào năm 1833 thì đối với quần đảo Trường Sa lại khó hơn. Cần nhớ rằng Pháp tuyên bố quần đảo Trường Sa là “vùng đất vô danh” (terra nullius) vào tháng 09/1930 khi chiếm hữu chúng và sau này mới trao lại cho chính quyền Việt Nam. Đọc thêm : Đưa vấn đề Biển Đông ra PCA: Việt Nam thận trọng cân nhắc thiệt, hơnNgoài ra, còn có một điểm khác cần nêu lên trước khi đề cập đến yêu sách chủ quyền của Việt Nam, đó là phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ngày 12/07/2016 chú ý đến hai điểm rất quan trọng.Thứ nhất, Tòa nhấn mạnh đến tính vô hiệu các quyền lịch sử. Tòa cho rằng kể cả Trung Quốc cũng khẳng định có các quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông nhưng các quyền này đã bị vô hiệu vì chúng không phù hợp với các vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982, còn gọi là công ước Montego Bay). Như vậy, rõ ràng là tòa đã vô hiệu hóa về mặt pháp lý “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh.Điểm quan trọng thứ hai trong phán quyết, đó là không công nhận các đá ngầm là đảo. Điều 121 của UNCLOS khẳng định “những đá ngầmkhông thích hợp cho con người tựsinh sống hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Khi viện dẫn điều này, Tòa Trọng Tài đã nêu rõ rằng “những cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi cấu trúc chìm khi thủy triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy”.Nói một cách khác, một đá ngầm với các điều kiện tự nhiên của chúng không thể trở thành một đá và càng không thể được coi là đảo theo luật pháp quốc tế. Điều này áp dụng đối với cả trường hợp Trung Quốc đã bồi đắp để một số thực thể ngầm nổi lên mặt nước. Chỉ tình trạng tự nhiên ban đầu mới có giá trị về luật. Nhìn từ lập trường của Tòa, những công trình bồi đắp do Bắc Kinh tiến hành ở Biển Đông không tạo ra các vùng đặc quyền kinh tế và càng không thể có thềm lục địa quanh những hòn đảo nhân tạo này. Tóm lại, theo Tòa Trọng Tài Thường Trực, chỉ có những vùng đặc quyền do bờ biển của các nước tạo ra là hợp pháp.Tuy nhiên, phán quyết của Tòa lại đặt ra vài vấn đề cho Việt Nam. Thứ nhất về các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), bởi vì khác với Trung Quốc, Việt Nam không phản đối thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực liên quan đến Biển Đông. Việt Nam công nhận tính hợp lệ của vùng đặc quyền kinh tế và tuyên bố quyền kiểm soát các vùng đặc quyền kinh tế của mình. Chúng ta nhớ rằng Hà Nội đã kịch liệt phản đối bất kỳ hành động thăm dò nào của tàu Trung Quốc diễn ra trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, như trường hợp của tầu Hải Dương 8 vào tháng 07/2019. Hệ quả là Việt Nam khó có thể phản đối Manila kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế của Philippines cho dù bao gồm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đọc thêm : Hà Nội nêu đích danh tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt NamKhó khăn thứ hai liên quan đến các đảo. Giả sử có một điều lệ cho phép Việt Nam giữ chủ quyền đối với các đảo ở quần đảo Trường Sa, phán quyết của Tòa cũng quy định rằng việc đó sẽ không bao giờ tạo ra vùng đặc quyền kinh tế. Điều này sẽ hạn chế khả năng tận dụng lợi thế của Việt Nam.Khó khăn thứ ba liên quan đến tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Vì lập luận của Việt Nam tương tự với Trung Quốc, có nghĩa là những bằng chứng lịch sử, nên giả sử Hà Nội viện đến Tòa Trọng Tài Thường Trực thì Tòa cũng sẽ không ra phán quyết có lợi cho họ. Điều này khiến Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc pháp lý. Cho nên nếu muốn duy trì yêu sách và được luật pháp quốc tế công nhận, Việt Nam sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xem xét lại lập luận của mình để đưa ra những yếu tố mới được chấp nhận về mặt pháp lý.RFI : Việt Nam luôn tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam sẵn sàng « nhân nhượng » phần nào với Philippines ? Laurent Gédéon : Về yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa có lẽ Việt Nam phải đàm phán trực tiếp với Trung Quốc trong bối cảnh cán cân vô cùng bất lợi cho Việt Nam, song đòi hỏi chủ quyền của Hà Nội đối với quần đảo Trường Sa còn phức tạp hơn nhiều, do nhiều yếu tố : Khó lập được mối liên hệ lịch sử rõ ràng của Việt Nam với Trường Sa, có nhiều nhân tố liên quan, khoảng cách địa lý không đều giữa các quốc gia với quần đảo không hẳn có lợi cho những nước nằm ở xa nhất, như trường hợp Việt Nam.Nếu bám vào khuôn khổ pháp lý mà chúng ta đã đề cập thì Việt Nam khó có thể bỏ qua đàm phán với Philippines. Nếu các cuộc đàm phán như vậy diễn ra một ngày nào đó, rất có khả năng là chúng sẽ dẫn đến việc chia sẻ các vùng chủ quyền. Thực vậy, Việt Nam khó có thể phản đối giá trị pháp lý của những tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với các đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này, trừ khi đi ngược lại với luật pháp quốc tế - điều mà Hà Nội vẫn dựa vào đó để khẳng định vùng đặc quyền kinh tế mình, như chúng ta đã đề cập ở trên. Đọc thêm :Biển Đông: Việt Nam trước áp lực của Trung Quốc về đàm phán song phươngNgoài ra còn phải bổ sung thêm một điểm quan trọng về địa-chính trị. Chúng ta thấy từ vài năm nay, căng thẳng gia tăng thường xuyên ở khu vực Đài Loan. Hoa Kỳ gia tăng ủng hộ hòn đảo, đồng thời củng cố các thỏa thuận quân sự với Manila, cho phép Mỹ tiếp cận 9 căn cứ của Philippines. Trước tình hình đó, Trung Quốc liên tục nỗ lực cải thiện năng lực quân sự và thường xuyên đe dọa can thiệp vũ trang vào Đài Loan. Đến lúc nào đó, tình hình ngày càng căng thẳng này có thể sẽ dẫn tới xung đột.Trong trường hợp xảy ra xung đột Đài Loan, nếu như không có gì cho thấy Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp thì Philippines gần như chắc chắn sẽ có liên quan trực tiếp. Giả sử cuộc xung đột này khiến Trung Quốc yếu đi, Philippines có thể được lợi từ việc sát cánh với Hoa Kỳ, có nghĩa là Washington sẽ ủng hộ về ngoại giao đối với các yêu cầu chủ quyền của Manila. Điều này có thể sẽ xảy ra ngay cả khi lập trường chính thức của Hoa Kỳ là không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền quần đảo. Do đó có thể thấy lợi ích của một thỏa thuận sớm giữa Philippines và Việt Nam vì nếu không, vị thế cũng lợi ích của Việt Nam có thể bị suy yếu trong trường hợp xảy ra xung đột.RFI : Một thỏa thuận như vậy có thể coi là bí mật quốc gia, như Việt Nam và Trung Quốc - hai nước có hệ thống chính trị tương đồng, đã áp dụng. Tuy nhiên với Philippines thì lại khác, thỏa thuận có thể được công bố. Trong trường hợp đó, Việt Nam sẽ phải vận động người dân như thế nào trong khi Hà Nội luôn khẳng định chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa ?Laurent Gédéon : Theo tôi, khó hình dung ra được là có thể giữ bí mật một thỏa thuận như vậy nếu xét tới bối cảnh chính trị - xã hội rất khác nhau giữa Việt Nam và Philippines. Tôi nghĩ là nếu có một thỏa thuận như vậy, chính quyền Việt Nam cần giảng giải cho người dân bằng cách nhấn mạnh đến việc phân chia các vùng chủ quyền sẽ không gây tổn hại đến lợi ích kinh tế và chiến lược của đất nước và sẽ tạo ra những lợi thế vồn không thể có được trong cảnh bế tắc.Ngoài ra, không có gì cấm hình dung rằng một thỏa thuận chính thức về việc phân chia chủ quyền có thể được bổ sung thêm các thỏa thuận khác cho phép hai nước sử dụng chung một số nguồn tài nguyên. Nếu mối quan hệ giữa Hà Nội và Manila là đáng tin cậy thì điều này có thể thực hiện được và sẽ cho phép dư luận Việt Nam hiểu rõ hơn về lợi ích của một cuộc đàm phán như vậy.Đó là sự đảo ngược hoàn toàn những phát biểu hiện nay, mà theo tôi, để làm được việc này đòi hỏi quyết tâm chính trị rõ ràng và cần một quá trình chuẩn bị trước kỹ lưỡng, lâu dài bởi vì dư luận Việt Nam sẽ phải mất vài năm để quen với cách nhìn nhận khác về quần đảo Trường Sa cùng với những thách thức liên quan đến chủ quyền Trường Sa. Nhưng tôi nghĩ là điều này có thể sẽ thuận lợi bởi lập trường của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, ngược lại sẽ không thay đổi.RFI : Các cuộc tập trận gần đây giữa Philippines và các nước Mỹ, Nhật Bản, Úc ở Biển Đông nhằm thể hiện cứng rắn trước những hành động quấy rối và yêu sách của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc này cũng có tác động phần nào đến Việt Nam, một bên có tranh chấp chủ quyền ở trong vùng ?Laurent Gédéon : Đúng vậy, những sự kiện này có tác động rõ ràng đối với Việt Nam. Từ nhiều năm nay, Hoa Kỳ tìm cách tập hợp các nước trong vùng phản đối những yêu sách hàng hải của Bắc Kinh trong một cấu trúc an ninh do Washington điều hành. Nhưng cho đến giờ, Hà Nội vẫn không muốn tham gia một cơ chế như vậy. Nhưng trên bình diện địa-chính trị, hoàn toàn có thể tự hỏi là Hà Nội sẽ được gì khi xích lại gần với Hoa Kỳ trong trường hợp Mỹ-Trung xảy ra xung đột.Đây là một ván cược. Việc đặt cược vào thắt chặt quan hệ chiến lược Mỹ-Việt rõ ràng là đầy gay góc với Hà Nội với hai khả năng có thể xảy ra. Trường hợp thứ nhất, Trung Quốc ra khỏi xung đột ở thế mạnh. Trong giả thuyết này, nếu sát cánh quá lộ liễu với Washington, Việt Nam có nguy cơ phải trả giá, nhất là về kinh tế - lĩnh vực vốn kết nối chặt chẽ hai nước.Ở giả thuyết thứ hai, Trung Quốc thoát khỏi xung đột trên thế yếu. Trong trường hợp này, Việt Nam có thể được lợi từ cuộc xung đột, kể cả đối quần đảo Hoàng Sa. Còn đối với quần đảo Trường Sa, Hà Nội vẫn không thể không đàm phán với Manila. Nhưng cuộc đàm phán này có thể sẽ cân bằng hơn và Hoa Kỳ có thể sẽ đóng vai trò trọng tài hơn là ủng hộ Manila. Do đó, theo tôi, Hà Nội sẽ phải tính toán tỉ lệ thiệt/hơn khi sát cánh với Washington. Đọc thêm : Biển Đông: Philippines tăng cường liên minh với Mỹ, Nhật, ÚcTóm lại, dù là với bất kỳ kịch bản nào, chính sách thận trọng và giữ khoảng cách của Hà Nội, hợp lý trong bối cảnh hiện tại, có lẽ sẽ phản tác dụng trong trường hợp nổ ra xung đột và có điều chỉnh lớn về cân bằng địa chính trị trong vùng.Điều gần như chắc chắn là hiện nay, căn cứ vào lập trường bất di bất dịch của Bắc Kinh về Biển Đông và nhìn vào chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Mỹ, Việt Nam có lẽ không có cơ hội nào giành lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc đàm phán với nước láng giềng và trong mọi trường hợp sẽ rơi vào thế yếu trước Philippines về Trường Sa nếu như không có đàm phán trước với Manila hoặc xích lại gần với Washington.Do đó, chừng nào những vấn đề này được Hà Nội coi là một thách thức quan trọng, tôi cho rằng việc cần điều chỉnh các trục ngoại giao của Việt Nam có lẽ việc cần thiết để nâng cao vị thế và những tuyến bố chủ quyền của Việt Nam trong trung hạn.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon.
10/2/2023 • 12 minutes, 45 seconds
Việt Nam và Mỹ tăng cường hợp tác trong lĩnh vực bán dẫn
Nhân chuyến viếng thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tại Việt Nam hai ngày 10 và 11/09, Washington và Hà Nội đã nâng cấp quan hệ song phương lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện”. Đặc biệt, trong bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ, hai nước đã thiết lập “Quan hệ đối tác mới về bán dẫn nhằm hỗ trợ phát triển chuỗi cung ứng bán dẫn bền vững, linh hoạt cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động Hoa Kỳ”. Theo bản tuyên bố, Hoa Kỳ công nhận "tiềm năng của Việt Nam với vai trò quan trọng trong việc thiết lập chuỗi cung ứng bán dẫn”. Trong khuôn khổ Quỹ Đổi mới sáng tạo và An ninh Công nghệ Quốc tế (Quỹ ITSI), Hoa Kỳ sẽ hợp tác với Việt Nam “để phát triển hơn nữa hệ sinh thái bán dẫn, khung pháp lý, cũng như lực lượng lao động và nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay của Việt Nam.”Nói chung, Mỹ có kế hoạch biến Việt Nam thành cường quốc về chip bán dẫn và giúp Việt Nam đa dạng hóa chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Nhưng vấn đề là Việt Nam phải cấp tốc đào tạo một đội ngũ chuyên gia, kỹ sư để đáp ứng nhu về nhân lực của ngành này.RFI Tiếng Việt phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về vấn đề này.RFI: Thưa chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn quan trọng đến mức đã được lãnh đạo hai nước nêu lên ngay trong phần đầu tiên của bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”. Vậy theo bà, vì sao Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam là một quốc gia "có tiềm năng lớn" để tham gia vào chuỗi cung ứng bán dẫn cho ngành công nghiệp Mỹ?Phạm Chi Lan: Chắc phía Mỹ cũng đã căn cứ vào việc theo dõi sự phát triển của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi tập đoàn Intel vào Việt Nam năm 2003 để đầu tư vào dự án đầu tiên về công nghệ cao ở Việt Nam. Vào thời gian đó, Intel đã bỏ ra mấy năm trời để đàm phán với Việt Nam, tham khảo rất kỹ thị trường Việt Nam về các mặt, làm việc với chính phủ trung ương, với chính quyền các cấp, các bộ ngành liên quan, kể cả với các trường, là những nơi đào tạo nguồn nhân lực, rồi mới đi đến quyết định đó.Lúc đó tôi có được thủ tướng Phan Văn Khải đưa vào tổ công tác đặc biệt để làm việc với Intel, đứng đầu là ông Nguyễn Mại, từng là phó chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về đầu tư, rất thông thạo về đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đàm phán với Intel trên cơ sở là xem xét tất cả các yêu cầu của Intel, đối chiếu với khả năng của Việt Nam, xem có thể đáp ứng được gì. Bất cứ những gì mà trong phạm vi quyền hạn của chính phủ có thể tạo điều kiện được, thì theo chỉ đạo của thủ tướng Phan Văn Khải, chúng tôi cố gắng làm tối đa. Thậm chí có những gì luật chưa quy định rõ thì chính phủ có thể đề nghị thêm với Quốc Hội để làm rõ về pháp luật, để từ đó Intel có thể đầu tư vào Việt Nam. Còn về những mặt mà Việt Nam còn thiếu hụt, như nguồn nhân lực, thì thúc đẩy các trường cố gắng đáp ứng được cho Intel.Chính vì thấy năng lực và thiện chí của phía Việt Nam tích cực giải quyết các vấn đề như vậy, cho nên Intel đã quyết định chọn Việt Nam trong, khi họ có 3 sự lựa chọn khác đang cân nhắc trong khu vực: Hàng Châu ( Trung Quốc ), Thái Lan và Ấn Độ. Cả ba đều có ưu thế so với Việt Nam, nhưng cuối cùng Intel chọn Việt Nam. Sau Intel, các tập đoàn công nghệ của các nước, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc, đã vào Việt Nam khá nhiều. Các công ty Hoa Kỳ trong những năm gần đây cũng đã quan tâm và có nhiều cuộc trao đổi với Việt Nam. Như vậy, càng ngày càng thấy rõ hơn khả năng của Việt Nam trong ngành công nghiệp như điện tử, mà điển hình là thành công của Samsung ở Việt Nam, có thể cho thấy Việt Nam có năng lực về lĩnh vực này. Trong những năm gần đây, lực lượng lao động của Việt Nam, với những người trẻ, đi học ở các nước rất nhiều, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước châu Âu, tức là những nước có nền tảng công nghệ cao. Từ đó, Việt Nam có cả một lực lượng những người trẻ là một nguồn nhân lực bổ sung rất tốt cho Việt Nam.Trong nước cũng vậy, ở các trường, nhiều em học sinh trẻ tham gia vào các ngành công nghệ thông tin cũng như công nghiệp điện tử đang chiếm tỷ lệ ngày càng cao. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, có một vấn đề mà nhiều chuyên gia đã nêu lên đó là tình trạng thiếu nhân lực cho các ngành công nghệ cao như bán dẫn. Chủ tịch của tập đoàn FPT, ông Trương Gia Bình đã cho biết là Việt Nam cần phải đào tạo gấp từ 30.000 đến 50.000 chuyên gia bán dẫn để đáp ứng nhu cầu của ngành này. Theo bà thì liệu Việt Nam có thể nhanh chóng giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực đó?Phạm Chi Lan: Các tập đoàn về công nghệ cũng thường hay nói như vậy. Nhưng trên thực tế, một khi đã có hướng rõ ràng, có nhà đầu tư vào làm, cần nguồn nhân lực trong lĩnh vực này, thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam có thể xuất hiện nhanh chóng trong vòng vài năm. Trong thời gian xây dựng nhà máy, chuẩn bị các cơ sở vật chất, những người muốn tham gia gia vào ngành đó sẽ tự chuẩn bị cho họ, ráo riết đi học cho kịp thời gian. Đó cũng là cơ hội công việc với tương lai tốt mà họ đã khát khao chờ đợi từ lâu. Họ sẽ không bỏ lỡ thời cơ. Các doanh nghiệp có thể yên tâm là Việt Nam sẽ nhanh chóng đáp ứng được.Những con số như ông Trương Gia Bình đưa ra thì cũng có cơ sở thôi, nhưng đó là bởi vì lâu nay ở Việt Nam đã có doanh nghiệp nào thật sự làm trong lĩnh vực này đâu! Chưa có ai đặt ra nhu cầu về nhân lực với một tiến độ rõ ràng: bao giờ cần, cần một nguồn nhân lực như thế nào. Nếu có nhà đầu tư nào đưa ra như vậy thì cái sự sẵn sàng đó sẽ cao hơn.Tôi nghĩ là thật ra các trường cũng đã học được bài học đầu tiên từ việc Intel vào Việt Nam. Tôi nhớ mãi lúc ấy Intel đã gặp 7 trường ở Sài Gòn để tìm khoảng 2.000 người làm việc cho Intel, nhưng trong đợt đầu tiên chỉ tuyển chọn được 90 người, số còn lại thiếu về mặt này hay mặt khác, hoặc về tiếng Anh, hoặc là về kỹ năng chuyên môn, cần thời gian đào tạo thêm. Nhưng đó là khi họ vừa bước chân vào, đang chuẩn bị nhà máy, nhưng sau đó, khi hình thành nhà máy thì dần dần Intel có đủ nguồn nhân lực cần thiết.Samsung sau này cũng vậy: Khi chính phủ khuyến khích Samsung lập cơ sở R&D ( Nghiên cứu và Phát triển ) ở Việt Nam, ban đầu họ cũng có chút ngần ngại, không biết có đủ nguồn nhân lực không. Nhưng bây giờ khi cơ sở đó hình thành thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam đã có đầy đủ, sẵn sàng làm việc cho Samsung. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, ý định của Hoa Kỳ rõ ràng biến Việt Nam thành một nơi cung ứng sản phẩm bán dẫn cho thị trường Mỹ, nhằm bớt phụ thuộc vào nguồn cung ứng của Trung Quốc. Nhưng phải làm sao để Việt Nam không tiếp tục chỉ là một nơi sản xuất hàng hóa cho nước khác, tức là phải làm sao bảo đảm việc chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác với Mỹ, để Việt Nam có thể dần dần nâng cao giá trị của nền kinh tế trong chuỗi cung ứng quốc tế?Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ là phía Việt Nam đã thấm bài học của việc thu hút đầu tư nước ngoài trong mấy chục năm qua. Rất nhiều dự án đầu tư ban đầu đều cam kết chuyển giao công nghệ, nhưng trên thực tế không làm được bao nhiêu. Tổng kết 30 năm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, hay nghị quyết về FDI của Bộ Chính trị của khóa 12 cũng đã nêu lên khá rõ điều đó và đã yêu cầu có những chỉnh sửa để làm sao thu hút được chuyển giao công nghệ, đòi hỏi được các nhà đầu tư đã cam kết chuyển giao công nghệ phải thực hiện cam kết của họ thì mới được nhận ưu đãi. Đây không chỉ là yêu cầu lớn của các lãnh đạo mà còn của người dân Việt Nam, nhất là những người trẻ. Họ sẽ không chấp nhận Việt Nam chỉ là nơi cung cấp lao động giá rẻ, chuyên làm thuê cho bên ngoài. Bây giờ gia đình những người trẻ ở Việt Nam rất chịu khó cho con em đi học ở các nơi để tiếp nhận các nguồn công nghệ, các kỹ năng tốt hơn, cũng với mục tiêu là sau này về các em sẽ làm những vị trí khác so với trước và có thể tham gia vào quá trình đổi mới, sáng tạo của chính người Việt Nam. Chẳng hạn như bạn Lương Việt Quốc đã về lập công ty RealTime Robotics, chế tạo những drone rất thành công ở Việt Nam, với những kỹ sư trè hoàn toàn được đào tạo ở Việt Nam, tạo những tấm gương rất tốt cho những người trẻ ở Việt Nam, chứng minh Việt Nam có thể tự mình nghiên cứu làm chủ được các sáng tạo công nghệ. Trong giai đoạn hiện nay của sự phát triển, rõ ràng Việt Nam vẫn cần tham gia tiếp vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu và với một vị trí tốt hơn, cao hơn so với trước đây là chỉ làm trên cơ sở lao động giá rẻ, kỹ năng rất thấp và giá trị gia tăng không bao nhiêu, rồi tiến dần đến việc người Việt Nam làm chủ được một số lĩnh vực.RFI: Như vậy, theo bà, Việt Nam có thể tận dụng được những thế mạnh của Hoa Kỳ để xây dựng một ngành công nghiệp bán dẫn trình độ cao?Phạm Chi Lan: Hoa Kỳ có thế mạnh rất lớn, kỹ năng rất lớn và cách thức chuyển gao công nghệ của Hoa Kỳ cũng có những cái cởi mở và rõ ràng hơn so với một số quốc gia khác, cho nên tôi tin là sẽ làm được. Tôi nghĩ là các công ty Hoa Kỳ đến Việt Nam với một tinh thần hợp tác tốt và nhất là hiệp định mới có cam kết nhất cả ở cấp nhà nước với nhau, chắc chắn sẽ tạo thuận lợi cho các công ty, các doanh nghiệp và cá nhân những người lao động, những người trẻ tham gia vào quá trình cũng sẽ biết cách làm việc với nhau để tạo được lợi ích cao nhất cho cả hai bên.
9/25/2023 • 10 minutes, 37 seconds
Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển Đông
Việt Nam là nước tiếp theo trong ASEAN thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ trong bối cảnh Bắc Kinh không ngừng hăm dọa, bành trướng ở Biển Đông, bằng chứng mới nhất là Bản đồ tiêu chuẩn năm 2023 của bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên Trung Quốc giúp lãnh thổ nước này « phình » thêm. Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt - Mỹ được tổng thống Joe Biden coi là « bước đi vô cùng thiết yếu đối với hai nước », « vào lúc chúng ta phải đương đầu với thách thức có tác động lớn tới quan hệ trong khu vực và trên thế giới ».Chính sự hung hăng, cậy nước lớn của Trung Quốc khiến nhiều nước Đông Nam Á (Philippines, Việt Nam, Indonesia) có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở Biển Đông phải thắt chặt hợp tác với bên thứ ba (Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, Mỹ) để thể hiện quyết tâm răn đe trước những đòi hỏi chủ quyền ngày càng lớn của nước láng giềng khổng lồ nhưng cũng là đối tác thương mại quan trọng.Việt - Mỹ : Hai nước cựu thù thành đối tác chiến lượcNgày 10/09/2023 đánh dấu cột mốc lịch sử cho quan hệ song phương Mỹ-Việt. Tổng thống Joe Biden công du Hà Nội theo lời mời của tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Hai nhà lãnh đạo ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện. Sau 50 năm, cựu thù Mỹ trở thành một trong 5 nước hàng đầu trong hệ thống phân cấp quan hệ đối ngoại chính thức của Việt Nam.Trả lời RFI Tiếng Việt qua thư điện tử ngày 11/09, giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inoue (DKI APCSS) tại Hawaii, Hoa Kỳ đánh giá về tầm quan trọng và lợi ích của thỏa thuận quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện đối với hai nước :« Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ nâng Hoa Kỳ lên vị trí hàng đầu trong hệ thống phân cấp quan hệ đối ngoại chính thức của Việt Nam. Nó cũng sẽ nâng Mỹ lên ngang hàng với Trung Quốc và Nga trong hệ thống phân cấp này. Sự « cân bằng » giữa các cường quốc này là điều chưa từng có trong lịch sử nước Việt Nam cộng sản. Có một quy tắc bất thành văn về cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp quan hệ đối ngoại của Việt Nam là nó được dành cho những quốc gia không gây ra mối đe dọa nào đối với sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản ở Việt Nam. Nâng Hoa Kỳ lên hàng đầu này, Hà Nội cho thấy rằng họ không còn coi Washington là mối đe dọa đối với chế độ của mình. Mối quan hệ hợp tác được nâng cao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ phần nào khắc phục cán cân quyền lực trong vùng ở Đông Nam Á, bao gồm cả Biển Đông. Khi Hoa Kỳ coi Việt Nam là một « quốc gia xoay trục » ở châu Á, mối quan hệ đối tác được nâng cao với Việt Nam sẽ tạo ra sự cân bằng quyền lực thuận lợi hơn (hoặc ít bất lợi hơn) cho Washington ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương ». Đọc thêm :Việt Nam và Mỹ cảnh báo việc "sử dụng vũ lực" ở Biển ĐôngTheo nhật báo New York Times, trong suốt chuyến thăm cấp Nhà nước của nguyên thủ Mỹ, cả hai nhà lãnh đạo không trực tiếp nhắc đến Trung Quốc khi phát biểu. Thế nhưng, chính Trung Quốc là lý do ngầm để Mỹ-Việt quyết định nâng cấp quan hệ song phương trong bối cảnh tổng thống Biden cố thiết lập một mạng lưới đối tác trong vùng để ngăn cản hành động hung hăng của Bắc Kinh.Việt Nam rõ ràng sẵn sàng mạo hiểm chọc giận Bắc Kinh bằng cách nâng cao mối quan hệ với Washington. Tại sao Hà Nội lại làm như vậy ? Giáo sư Alexander Vuving phân tích :« Sự quyết đoán ngày càng tăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, cùng với ảnh hưởng của họ ngày càng tăng ở Cam Bốt và Lào, đã khiến Việt Nam không có « chiều sâu chiến lược ». Việc Việt Nam nâng cao mối quan hệ với Hoa Kỳ là một phản ứng trước tình hình này. Nó sẽ tạo ra một đối trọng phù hợp hơn với Trung Quốc. Để giảm thiểu nguy cơ chọc giận Trung Quốc, Việt Nam đã thực hiện chiến dịch ngoại giao nhằm trấn an Bắc Kinh. Chuyến thăm Trung Quốc của người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng năm ngoái (2022) đã phá vỡ quy định kéo dài hàng chục năm rằng điểm đến đầu tiên ở nước ngoài của một người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam sau khi đắc cử hoặc tái tranh cử tại Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam là Lào chứ không phải Trung Quốc. Hai tuần trước chuyến thăm Việt Nam của Biden, ông Nguyễn Phú Trọng đã tới cửa khẩu (Hữu Nghị) với Trung Quốc, gặp đại sứ Trung Quốc và ca ngợi tình hữu nghị với Trung Quốc. Một tuần trước chuyến thăm của Biden cũng chứng kiến hai sự kiện khác trong quan hệ Việt-Trung : Bí thư Đảng Cộng sản Trọng tiếp ông Lưu Kiến Siêu, trưởng ban liên lạc đối ngoại trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, và hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau tại biên giới Trung-Việt ». Đọc thêm : Báo chí Trung Quốc: Chuyến thăm Việt Nam của TT Mỹ "chỉ mang tính tượng trưng"Ngày 05/09, khi tiếp Lưu Kiến Siêu, trưởng ban Đối ngoại đảng Cộng Sản Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh luôn luôn « coi trọng và ưu tiên hàng đầu phát triển quan hệ Việt-Trung ». Chính những hoạt động « trấn an », « xoa dịu » này là cơ sở để giới chuyên gia Trung Quốc cố giảm thiểu tầm quan trọng của sự kiện Mỹ-Việt nâng cấp quan hệ lên hàng Đối tác Chiến lược Toàn diện. Ngay khi ông Trọng và ông Biden ra tuyên bố nâng cấp quan hệ song phương, Hoàn Cầu thời báo đã đăng nay một bài nhận định của các chuyên gia Trung Quốc cho rằng Việt Nam sẽ không « đi quá xa » vì nước này không đặt quan hệ Trung-Việt làm đối trọng với quan hệ Mỹ-Việt. Trong ngày công du thứ hai của tổng thống Biden, cũng Hoàn Cầu thời báo trích nhận định của chuyên gia Hu Xijin cho rằng « Washington không nên kỳ vọng biến Việt Nam thành Philippines thứ hai ».Nhiều nước Đông Nam tìm đến Mỹ để làm đối trọng với Trung QuốcPhilippines là nước thay đổi thái độ rõ ràng và triệt để kể từ khi ông Ferdinand Marcos Jr. trở thành tổng thống, khác với những lo ngại trước đó của giới chuyên gia về quá khứ thân Trung Quốc của dòng họ Marcos. Trong chuyến công du Washington của tân tổng thống Philippines, ông Joe Biden khẳng định cam kết của Mỹ trong việc bảo vệ đồng minh, kể cả ở Biển Đông, là « vững chắc như thép ».Quân đội Mỹ được tiếp cận tổng cộng 9 căn cứ của Philippines. Quân đội hai nước thường xuyên tập trận chung thủy-lục-không quân, thêm vào đó là các cuộc tập trận đa phương cùng với các đồng minh và đối tác Úc, Nhật Bản, New Zealand, Ấn Độ. Ngoài quân sự, Mỹ và Philippines còn tăng cường hợp tác kinh tế, thúc đẩy phát triển công nghệ cao. Đọc thêm : Liên minh Mỹ-Nhật-Philippines đang được hình thành để đối phó với Trung Quốc?Trước đó, Washington đã đưa Seoul và Tokyo xích lại gần nhau hơn, ký các hiệp ước quốc phòng ở Thái Bình Dương. Có thể nói, Hoa Kỳ dường như đã đạt được một số thành công quan trọng ở châu Á trong năm 2023. Vậy bước tiếp theo của chính quyền Biden là gì để tiếp tục tăng cường liên minh ở châu Á vào thời điểm này ? Giáo sư Alexander Vuving phân tích :« Tại cuộc họp ASEAN gần đây nhất, Hoa Kỳ và Indonesia đã công bố ý định nâng quan hệ song phương lên « quan hệ đối tác chiến lược toàn diện ». Tôi nghĩ đây là một bước đi đúng hướng. Cả Việt Nam và Indonesia đều nằm trong số « các quốc gia xoay chiều » ở châu Á, do đó, điều quan trọng là Mỹ phải ngang hàng với Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại của các quốc gia này. (Indonesia cũng là một « đối tác chiến lược toàn diện » của Trung Quốc.) Ngoài quan hệ song phương với các quốc gia chủ chốt trong khu vực, Washington phải thúc đẩy việc thành lập nhiều nhóm « tiểu phương » tập trung hợp tác trong một số lĩnh vực quan trọng như biến đổi khí hậu, khoáng sản chiến lược, chuỗi cung ứng, trí thông minh nhân tạo hoặc an ninh mạng. Ví dụ, Hoa Kỳ có thể bắt đầu một nhóm mới với các quốc gia có tầm quan trọng chiến lược, dễ bị tổn thương hơn trước biến đổi khí hậu như Việt Nam và Indonesia, cũng như các quốc gia có cùng quan điểm nhưng có đủ nguồn lực để chống lại biến đổi khí hậu như Nhật Bản, Đức hoặc Úc.Không nước thứ ba nào muốn đứng về phía nào trong cuộc cạnh tranh quyền lực lớn, nhưng hầu hết các nước trong khu vực đều rất cần sự hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực quan trọng cho sự thịnh vượng và an ninh của họ. Tận dụng những nhu cầu này của các nước trong khu vực là chìa khóa cho sự cạnh tranh giữa các cường quốc ». Đọc thêm : Thỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông?Vế an ninh luôn được Hoa Kỳ nhấn mạnh trong hợp tác với các đối tác trong vùng nhưng không phải là lĩnh vực duy nhất trong Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương công bố năm 2021. Chiến lược được coi là một « bước tiến lịch sử nhằm khôi phục vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, đồng thời điều chỉnh vai trò của mình cho phù hợp với thế kỷ 21 ». Theo trang web của Đại sứ quán Mỹ ở Việt Nam, năm 2022, « Hoa Kỳ đã tiến hành hiện đại hóa các liên minh lâu đời của mình, củng cố các mối quan hệ đối tác mới nổi, cũng như tạo dựng các liên kết mang tính sáng tạo cùng với các đồng minh và đối tác nhằm đối phó với những thách thức cấp bách, từ việc cạnh tranh với Trung Quốc cho tới biến đổi khí hậu và ứng phó với đại dịch ».Chính sách hung hăng của Trung Quốc bị phản tác dụng ?Trong khi Hoa Kỳ cố thể hiện là một đối tác « sẵn sàng hợp tác với mỗi nước », Trung Quốc lại quyết liệt bảo vệ chủ quyền, lợi ích bất chấp phản đối của các nước làng giềng, sự kiện mới nhất là Bản đồ tiêu chuẩn năm 2023 của bộ Tài Nguyên Thiên Nhiên Trung Quốc gồm « 10 đoạn », gộp hầu hết Biển Đông và cả Đài Loan, cùng với hai phần lãnh thổ có tranh chấp với Ấn Độ và kể cả phần diện tích của Nga trên hòn đảo Bolshoy Ussuiysky ở sông Amur. Đọc thêm : Việt Nam, Malaysia và Philippines phản đối bản đồ mới của Trung QuốcSự tự tin thái quá này lại gây phản tác dụng và càng tạo cớ chính đáng để Mỹ tăng cường hiện diện ở Biển Đông, theo phân tích ngày 12/09 của nhà nghiên cứu Pascal Boniface, người sáng lập Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quan hệ Quốc tế (IRIS) :« Bản đồ này một lần nữa nhấn mạnh đến những đòi hỏi chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc lại khiến các nước láng giềng quan ngại. Thực vậy, mong muốn khẳng định sức mạnh ngày càng quyết liệt của Trung Quốc lại dẫn đến hệ quả các nước láng giềng, lúc đầu có thể không quá lo lắng về sự trỗi dậy được coi là « ôn hòa » của Trung Quốc nhưng giờ cho rằng sự trỗi dậy đó không « ôn hòa » như Bắc Kinh khẳng định.Những quan ngại đó cuối cùng mang lại kết quả tức thì, đó là yêu cầu Mỹ « bảo trợ ». Hành động của Trung Quốc lại phần nào giúp tái hợp thức hóa cho sự gia tăng hiện diện của Mỹ theo yêu cầu của một số nước trong vùng. Ông Tập Cận Bình tự tin vào bản thân, tin vào quyền lực của ông, thượng đỉnh BRICS dường như củng cố thêm quyền lực cho ông. Ông có thể tự cho phép không đến dự thượng đỉnh G20 ở Ấn Độ. Nhưng chúng ta cũng tự hỏi liệu mong muốn mãnh liệt thúc đẩy sức mạnh Trung Quốc lại không gây phản tác dụng ngay đối với cả lợi ích của Trung Quốc. Nếu không tính đến những phản ứng của các nước láng giềng, không chú ý đến môi trường quốc tế thì Bắc Kinh cũng sẽ phải chịu những hạn chế trong quá trình trỗi dậy, trong khi điều đó không phải là chủ đích của ông. Thế nhưng, điều này ngày càng được thấy rõ và giúp hợp thức hóa tuyên bố, của nhiều nước trong vùng, coi Trung Quốc không phải là một cường quốc « ôn hòa » mà là một đối thủ, thậm chí là một mối đe dọa tiềm tàng ».
9/18/2023 • 9 minutes, 33 seconds
Thời điểm thích hợp để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ
Nhân chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Mỹ Joe Biden, hôm qua, 10/09/2023, Hà Nội và Washington đã nâng cấp quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, mức cao nhất trong hệ thống quan hệ đối ngoại của Hà Nội. Nếu như việc nâng cấp quan hệ vẫn là yêu cầu từ lâu của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam, đây là một diễn tiến ngoạn mục, bởi cho đến gần đây Hà Nội vẫn rất ngần ngại thắt chặt hơn nữa bang giao với Mỹ, vì sợ phản ứng từ Trung Quốc. Trả lời RFI Việt ngữ, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á, Singapore, cho rằng thời điểm hiện nay là thích hợp để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ mà không gặp trở ngại nào và cũng không gặp phản ứng mạnh từ phía Trung Quốc. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp. RFI: Xin chào anh Lê Hồng Hiệp. Trước hết theo anh, những lý do gì khiến Việt Nam nay mạnh dạn nâng cấp quan hệ với Mỹ sau một thời gian chần chừ:Lê Hồng Hiệp: Việc Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thì có nhiều lý do. Thật sự Mỹ và Việt Nam xứng đáng là đối tác chiến lược toàn diện của nhau. Hiện tại Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với bốn quốc gia là Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc. So với các đối tác này thì Mỹ hoàn toàn là ngang tầm, thậm chí quan trọng hơn đối với Việt Nam về kinh tế và chiến lược. Chính vì vậy mà việc Việt Nam quyết định nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đến mức ngang với các nước kia là hoàn toàn hợp lý. Ngoài ra, về mặt thời điểm, thứ nhất là hai nước đang kỷ niệm 10 năm quan hệ đối tác toàn diện, một thời điểm, một cái cớ rất phù hợp để hai bên có thể nâng cấp quan hệ mà không gây ra phản ứng từ các đối tác khác, đặc biệt là từ phía Trung Quốc.Thứ hai, về phía tính toán của Việt Nam, năm nay cũng là năm phù hợp, vì nếu Việt Nam chờ đợi thêm thì có thể có những yếu tố bất định mà Việt Nam không thể lường trước được. Ví dụ như năm sau, Mỹ sẽ bầu tổng thống, chúng ta không thể biết chắc chắn là chính quyền của Mỹ sẽ có gì thay đổi hay không, và nếu có thay đổi, thì liệu Việt Nam có còn là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ hay không.Cạnh tranh Mỹ-Trung đang có xu hướng ngày càng gay gắt, nếu Việt Nam trì hoãn việc nâng cấp quan hệ với Mỹ, thì nếu trong tương lai, cạnh tranh Mỹ -Trung xấu đi, việc Việt Nam quyết định nâng cấp quan hệ với Mỹ có thể dẫn đến những phản ứng tiêu cực từ phía Trung Quốc, vì có thể bị xem là chọn đứng về phía Mỹ để chống Trung Quốc. Ngoài ra, còn có các lợi ích tiềm năng mà Việt Nam có thể mong đợi nhận được từ việc nâng cấp quan hệ, như là từ thương mại, đầu tư, công nghệ hay hợp tác chống biến đổi khí hậu và đặc biệt là những hỗ trợ của Mỹ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng.RFI: Ngược lại, đối với Hoa Kỳ, việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” mang lại những mối lợi gì?Lê Hồng Hiệp: Về kinh tế, Việt Nam đang có vai trò ngày càng quan trọng đối với Hoa Kỳ. Năm vừa rồi, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ bảy của Hoa Kỳ bên cạnh các đối tác lớn truyền thống của họ. Điều này càng trở nên rõ ràng hơn trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ-Trung dẫn đến các mâu thuẫn về thương mại và đầu tư, dẫn đến việc nhiều công ty của Mỹ đã chuyển các cơ sở sản xuất của họ qua các nước khác, trong đó có Việt Nam, biến Việt Nam thành một mắt xích ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, phục vụ cho nền kinh tế Mỹ cũng như là các công ty đa quốc gia của Mỹ. Về mặt chiến lược, Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, Mỹ-Nga ngày càng gay gắt. Hoa Kỳ coi Việt Nam ngày càng quan trọng trong tính toán của họ đối với việc xử lý quan hệ với Trung Quốc và Nga. Không thể biến Việt Nam thành đồng minh quân sự thì họ cũng muốn Việt Nam trở thành một đối tác có thể hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của Mỹ, hoặc bằng mọi cách ngăn Việt Nam ngả về phía Trung Quốc hay Nga và qua đó tạo ưu thế chiến lược cho Mỹ và các đồng minh trong việc ứng phó với các đối thủ chiến lược này.Việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam cũng phù hợp với tầm nhìn về Ấn Độ-Thái Bình Dương của chính quyền Biden, vốn ưu tiên phát triển quan hệ với các nước chủ chốt trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, Indonesia hay Singapore…RFI: Trong một thời gian dài Việt Nam đã rất ngần ngại nâng cấp quan hệ với Mỹ vì sợ phản ứng của Trung Quốc. Nay Hà Nội đã quyết định nâng quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, chắc là Việt Nam đã có lường trước phản ứng của Trung Quốc cũng như đã có cách “hóa giải” phản ứng đó?Lê Hồng Hiệp: Có lẽ các nhà hoạch định chính sách ở Hà Nội đã xác định là nếu nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” thì sẽ khó mà gây ra các phản ứng quá mức từ phía Bắc Kinh. Thứ nhất, đối tác chiến lược toàn diện chủ yếu là một tuyên bố chính trị, chứ không phải là một liên minh quân sự. Cho nên nó không gây ra các mối đe dọa trực tiếp hay tức thì đối với Trung Quốc. Hiện giờ, quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc rất là tốt. Quan hệ song phương, ngoài vấn đề Biển Đông đang có căng thẳng, thì đang được quản lý tốt, hầu như không có những vấn đề quá lớn giữa hai nước. Vì vậy, khó có khả năng Trung Quốc sử dụng các biện pháp mạnh để trừng phạt Việt Nam về việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ.Ngoài ra, việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ cũng không phải là điều gì quá ghê gớm đối với Trung Quốc, vì bản thân Trung Quốc đã là “đối tác chiến lược toàn diện” của Việt Nam từ 15 năm nay, thậm chí còn ở mức cao hơn một chút, vì về mặt chính thức đó là "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, có thêm yếu tố “hợp tác” có nghĩa là cao hơn đối tác với Mỹ một bậc.Bản thân Việt Nam vẫn luôn khẳng định giữ thế cân bằng chiến lược giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc. Cuối năm ngoái, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã là lãnh đạo ngoại quốc đầu tiên đến thăm Trung Quốc sau Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Và nếu như chúng ta nhìn vào cách làm của Việt Nam từ trước đến nay thì chúng ta cũng có thể dự đoán được là sau chuyến thăm của ông Biden đến Hà Nội thì có rất là nhiều khả năng là Việt Nam sẽ đón tiếp chủ tịch Tập Cận Bình. Có một dấu hiệu cho thấy điều đấy sẽ sớm xảy ra, đó là ông Lưu Kiến Siêu, Trưởng ban Đối ngoại đảng Cộng sản Trung Quốc đã sang thăm Hà Nội và gặp các lãnh đạo Việt Nam. Có thể chuyến thăm của ông Lưu Kiến Siêu là một phần của kế hoạch chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Tập Cận Bình sang Việt Nam. Có thể nói là Việt Nam đã rất khéo léo trong việc giữ cân bằng trong quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc và đã trấn an Trung Quốc về việc nâng cấp quan hệ với Mỹ. Tất cả những điều này đã góp phần giúp Việt Nam cảm thấy tự tin để nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ mà không lo ngại các hành động trả đũa từ phía Trung Quốc.RFI: Mặc dù "đối tác chiến lược toàn diện" chỉ mang tính chất là một tuyên bố chính trị, chứ không phải là một liên minh, nhưng với quan hệ mới này thì vị thế của Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc trên vấn đề chủ quyền Biển Đông có thể được nâng cao thêm?Lê Hồng Hiệp: Theo tôi, có nhiều khả năng là Việt Nam sẽ có một vị thế tốt hơn, một đòn bẫy lớn hơn trong việc ứng phó với Trung Quốc trên Biển Đông sau khi nâng cấp quan hệ với Mỹ. Khi nâng cấp quan hệ, Mỹ có hứa sẽ hỗ trợ Việt Nam hiện đại hóa quân đội và đặc biệt là giúp Việt Nam nâng cao năng lực thu thập thông tin tình báo trên biển, bên cạnh những hoạt động mà lâu nay Mỹ vẫn hỗ trợ Việt Nam, đó là nâng cao năng lực trên biển, thông qua việc chuyển giao các tàu tuần duyên cho Việt Nam, hay hỗ trợ Việt Nam một số trang thiết bị để giúp Việt Nam ứng phó tốt hơn với các áp lực trên biển.Trong thời gian tới, tôi nghĩ là các hoạt động này sẽ được duy trì và thậm chí được nâng cao. Cũng sẽ có thể có việc chuyển giao các trang thiết bị, thậm chí vũ khí mới trong khuôn khổ "đối tác chiến lược toàn diện" này, giúp Việt Nam có năng lực tốt hơn trong việc ứng phó với các thách thức trên Biển Đông. Có nhiều khả năng là Mỹ, với tư cách "đối tác chiến lược toàn diện" của Việt Nam, sẽ hỗ trợ Việt Nam tốt hơn trên các diễn đàn quốc tế, hay trong những trường hợp mà Việt Nam có những sự cố trên biển với Trung Quốc, như vào năm 2014 khi xảy ra vụ giàn khoan 981, Mỹ đã là một trong những nước đã mạnh mẽ ủng hộ lập trường của Việt Nam, đã có những tuyên bố, hành động cụ thể để giúp Việt Nam ứng phó với khủng hoảng đó và gây sức ép để Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.
9/11/2023 • 10 minutes, 8 seconds
Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển Đông
Tổng thống Mỹ không dự cuộc họp thượng đỉnh với ASEAN dù Indonesia, nước chủ tịch luân phiên ASEAN, cố tình đẩy sớm ngày họp để thuận cho lịch trình công du châu Á của ông Biden, nhưng chủ nhân Nhà Trắng lại đến thăm Hà Nội ngày 10/09/2023. Quyết định này cho thấy Washington đề cao vai trò của Việt Nam, đồng thời mong muốn nâng cấp quan hệ với Hà Nội lên hàng « đối tác chiến lược toàn diện ». Theo thông cáo của Nhà Trắng, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ thảo luận các phương cách « thắt chặt hợp tác quan hệ giữa hai nước ». Nhưng giới chuyên gia có ý kiến khác biệt về khả năng nâng cấp quan hệ song phương. Trong trường hợp hai bên nâng cấp quan hệ lên thành « đối tác chiến lược toàn diện », đây sẽ là một thắng lợi ngoại giao của Hoa Kỳ trong việc gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, theo trang The Diplomat. Còn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp tại Singapore cho rằng đó sẽ là « bước đột phá đáng chú ý », vì Hà Nội chỉ ký thỏa thuận hợp tác ở cấp cao nhất với các nước được đánh giá có tầm quan trọng cho an ninh, thịnh vượng và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đọc thêm : Liệu Việt Nam có thể nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành "đối tác chiến lược toàn diện" ?Chuyến công du Việt Nam của tổng thống Mỹ có ý nghĩa như nào trong bối cảnh hiện nay ? Khả năng và rào cản trong việc nâng cấp quan hệ song phương ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye (DKI APCSS), tại Hawaii, Hoa Kỳ.RFI : Tổng thống Mỹ công du Việt Nam ngày 10/09 tới đây. Xin giáo sư cho biết về bối cảnh chuyến công du ?G.S. Alexander Vuving : Thứ nhất, mục đích chuyến công du của tổng thống Biden sang Việt Nam là để nâng cấp quan hệ lên tầm chiến lược trong bối cảnh cả Mỹ và Việt Nam đều muốn nâng cấp quan hệ lên tầm chiến lược. Mỹ muốn ngay từ khoảng năm 2010-2011. Còn Việt Nam, phải đến tận khoảng 2018-2019 mới cho rằng đó là chuyện cần thiết.Nhưng để có được ngày hôm nay, cũng phải trải qua rất nhiều thời kỳ, bởi vì có những lúc do sức khỏe của các lãnh đạo, rồi lịch trình của các lãnh đạo không cho phép nên không gặp được nhau. Thực vậy, muốn nâng cấp quan hệ lên tầm chiến lược, Việt Nam và Mỹ cần có cuộc gặp cấp cao giữa tổng thống Mỹ và tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Mãi cho đến đầu năm 2023, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và tổng thống Biden mới điện đàm với nhau. Trong cuộc điện đàm, hai ông đồng ý gặp nhau và sẽ nâng cấp quan hệ khi điều kiện cho phép. Trên đây là bối cảnh quan hệ song phương Mỹ-Việt. Đọc thêm : Dù rắc rối nghi thức, Mỹ chấp nhận tiếp Nguyễn Phú TrọngTuy nhiên còn có bối cảnh rộng hơn, tức là thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, đặc biệt là từ cuộc thương chiến giữa Mỹ và Trung Quốc, việc Nga xâm lược Ukraina. Tất cả những sự kiện đó cho thấy thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh đã kết thúc và hiện giờ chúng ta đang ở một thời kỳ mới. Có nhiều người gọi là Chiến tranh lạnh lần thứ hai hoặc cũng có cách khác. Cho nên phải đặt vấn đề nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ trong bối cảnh của một thời kỳ mới mà chúng ta vẫn chưa biết phải gọi tên như thế nào, nhưng là sau thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh.RFI : Ông Biden không tham dự các cuộc họp thượng đỉnh với ASEAN dù khối này đã cố tình đẩy lên sớm hơn kỳ họp lần này nhưng chọn công du Việt Nam. Quyết định này cho thấy tầm quan trọng như thế nào của Việt Nam ?G.S. Alexander Vuving : Theo tôi, tầm quan trọng của Việt Nam đối với Hoa Kỳ xuất phát từ một số yếu tố chính : vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế, sức đề kháng của Việt Nam đối với trung Quốc.Về vị trí địa lý, Việt Nam án ngữ con đường giao thông huyết mạch nhất của châu Á, chính là con đường đi qua Biển Đông, đồng thời cũng là con đường giao thông tấp nập nhất nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Việt Nam cũng án ngữ cửa ngõ phía Nam của Trung Quốc thông sang Đông Nam Á, cả trên biển lẫn trên đất liền. Và Việt Nam có vị trí địa lý rất đặc biệt, tương đối bản lề giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Về tiềm năng kinh tế, Việt Nam có dân số khá lớn, nhân lực rất dồi dào, đồng thời rất năng động. Ngoài ra còn có chính sách kinh tế tương đối thân thiện với nhà đầu tư. Độ mở của nền kinh tế rất cao. Việt Nam có rất nhiều hiệp định thương mại với rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với hầu hết các thị trường lớn trên thế giới, có lẽ chỉ trừ Mỹ. Đọc thêm : Việt Nam muốn thành “cứ điểm” sản xuất thế giới nhưng thiếu cơ sở hạ tầngĐiểm thứ ba cũng rất quan trọng. So với nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam có sức đề kháng rất lớn đối với bá quyền của Trung Quốc. Sức đề kháng này đã được tôi luyện trong hàng nghìn năm lịch sử, trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam biết rằng làm chư hầu của Trung Quốc sẽ như thế nào, cho nên không bao giờ muốn rơi vào cảnh đó. Và so với nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam tương đối hiểu Trung Quốc và cũng tương đối biết cách đối xử với Trung Quốc hơn. Đây chỉ là tương đối. Điều đó không có nghĩa là lúc nào Việt Nam cũng đối xử với Trung Quốc một cách hợp lý nhất.RFI : Trả lời họp báo ngày 29/08, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao việt Nam cho biết : «Chúng tôi tin rằng các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước sẽ làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đưa quan hệ hai nước phát triển ổn định, thực chất và lâu dài trên tất cả các lĩnh vực ». Liệu đây có phải là «thời điểm thích hợp» để nâng cấp quan hệ ngoại giao song phương như đề nghị của Mỹ ? G.S. Alexander Vuving : Mỹ muốn nâng quan hệ Việt-Mỹ thẳng từ « đối tác toàn diện » lên thành « đối tác chiến lược toàn diện ». Cá nhân tôi cho rằng thời điểm thích hợp để Mỹ và Việt Nam có một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là từ lâu rồi, chứ không phải chờ đến ngày hôm nay. Việt Nam muốn cân bằng quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là với các nước có ảnh hưởng trong khu vực. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc từ năm 2008, với Nga từ năm 2012 và với Ấn Độ từ năm 2016. Ngoài ra còn có quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản từ năm 2014. Chỉ còn với mỗi Mỹ vẫn còn là « đối tác toàn diện », thấp hơn cả « đối tác chiến lược » một nấc. Lẽ ra là phải khoảng từ 2014-2015, Việt Nam đã cần có mối quan hệ « đối tác chiến lược toàn diện » với Mỹ rồi. Nhưng vì nhiều lý do nên vẫn chưa có. Tất nhiên, « cân bằng » không có nghĩa là với bên này hay bên kia phải có mối quan hệ như nhau. Giữa Việt Nam và Mỹ, lợi ích chiến lược của hai nước đã rất tương đồng trong khá nhiều khía cạnh, đặc biệt là cán cân quyền lực trong khu vực. Cả Mỹ và Việt Nam đều không muốn Trung Quốc lộng hành ở Biển Đông và không muốn Trung Quốc bá chủ Đông Nam Á. Cả Mỹ và Việt Nam đều muốn tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Quốc tế về Luật biển, ở Biển Đông, và cũng muốn có một cán cân lực lượng tương đối cân bằng ở khu vực Đông Nam Á, không để một nước nào lộng hành và bá chủ khu vực này được. Có lợi ích chiến lược tương đồng như vậy trong khi quan hệ Mỹ-Việt Nam lại ở mức thấp như thế thì quả là bất cập. Đọc thêm : Hoa Kỳ khẳng định hậu thuẫn Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển ĐôngTuy nhiên, ở Việt Nam có hai luồng tư tưởng chính về việc phát triển quan hệ với Mỹ. Một luồng quan điểm chủ trương đi từ từ, "rón rén" trong quan hệ với Mỹ. Bởi vì họ lo ngại rằng đi xa và nhanh với Mỹ sẽ làm hỏng quan hệ với một số cường quốc khác, như Trung Quốc và Nga hoặc làm mất ổn định chính trị trong nước. Luồng quan điểm thứ hai lại cho rằng mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ chẳng hạn sẽ giúp làm tăng thêm thế đứng của Việt Nam trong quan hệ với các nước khác và các cường quốc khác. Đồng thời cũng buộc chặt hơn những cam kết của Mỹ đối với việc « tôn trọng độc, lập chủ quyền và chế độ chính trị » của Việt Nam. Thực vậy, khi Mỹ và Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, trong đó có một cam kết là Mỹ sẽ « tôn trọng độc lập, chủ quyền và chế độ chính trị » của Việt Nam. Khi quan hệ được nâng cao, Mỹ cũng sẽ nâng cao cam kết đó hơn. Điều này tốt hơn cho Việt Nam cả trong đối nội lẫn trong đối ngoại. Cho nên cái gọi là « thời điểm thích hợp » đối với Việt Nam cũng đồng thời phản ánh cuộc tranh luận giữa hai luồng quan điểm này trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam.RFI : Nếu căn cứ vào tình hình hiện nay thì có lẽ chưa phải là « thời điểm thích hợp ». « Yếu tố Trung Quốc » có đóng vai trò nào không ? G.S. Alexander Vuving : Theo như tôi nói ở trên, yếu tố cản trở thực chất là nhận thức quan điểm của những lãnh đạo chủ trương đi từ từ. Tất nhiên trong nhận thức quan điểm của họ có yếu tố đối nội và đối ngoại. Yếu tố đối nội là liệu quan hệ thân mật hơn với Mỹ có ảnh hưởng đến nội trị không. Còn yếu tố đối ngoại là liệu quan hệ với Mỹ sẽ ảnh hưởng thế nào tới quan hệ với Trung Quốc và Nga là hai cường quốc chống Mỹ. « Nhân tố Trung Quốc » rất quan trọng ở chỗ : Một mặt, tăng cường quan hệ với Mỹ thực ra sẽ nhằm gia tăng đối trọng với Trung Quốc. Thường thì mỗi khi Trung Quốc gia tăng gây hấn, Việt Nam lại có phản ứng là cố gắng tăng cường quan hệ với Mỹ. Mặt khác, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ được tăng cường thì cũng tạo xung lực cho Trung Quốc gia tăng gây hấn, bởi vì Trung Quốc rất bực tức khi thấy Việt Nam và Mỹ quan hệ nồng ấm với nhau. Trung Quốc đã sử dụng biện pháp vừa đe dọa vừa gây sức ép đối với Việt Nam trong vấn đề này, chẳng hạn ngay tháng 04/2022, sau khi Nga xâm lược Ukraina khoảng một tháng rưỡi, có một cuộc điện đàm giữa ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị và ngoại trưởng Việt Nam Bùi Thanh Sơn. Ông Vương Nghị nói rằng Mỹ, cùng với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của họ, là nhân tố lớn nhất gây bất ổn, gây chia rẽ trong khu vực. Ông Vương Nghị cũng nói bóng gió rằng nếu tư duy theo kiểu Chiến tranh lạnh thì có thể sẽ dẫn đến một thảm họa Ukraina khác trong khu vực này, ý nói bóng gió « Việt Nam đừng đi với Mỹ », « Đi với Mỹ là có thể gây ra thảm họa Ukraina nữa ». Đọc thêm : “Yếu tố Trung Quốc” trong quan hệ Mỹ-ViệtNgoài đe dọa, Trung Quốc đồng thời gây sức ép. Rất nhiều lần từ nhiều năm nay, lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn nói với lãnh đạo Việt Nam là hai nước phải cùng nhau xây dựng một cộng đồng chung vận mệnh, muốn Việt Nam tham gia vào những sáng kiến toàn cầu gần đây của Trung Quốc, như sáng kiến an ninh toàn cầu, sáng kiến phát triển toàn cầu, văn minh toàn cầu… Việt Nam không muốn gia nhập quỹ đạo Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng phải có cách để xử lý chuyện này êm thấm, nên Việt Nam cũng ỡm ờ, không nói rõ là không muốn tham gia nhưng cuối cùng Việt Nam cũng chưa hề khẳng định là tham gia sáng kiến an ninh toàn cầu của Trung Quốc, cũng không hề khẳng định tham gia cộng đồng chung vận mệnh của Trung Quốc.Tóm lại, Việt Nam cũng phải tìm điểm cân bằng giữa những phản ứng trái chiều. Một mặt, quan hệ với Mỹ là để cân bằng áp lực của Trung Quốc. Mặt khác cũng phải làm thế nào để không gây ra những phản ứng bất lợi từ phía Trung Quốc. Cho nên mỗi khi Việt Nam tiến một bước trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam lại phải tìm cách vuốt ve Trung Quốc để họ đỡ bực bội. Đọc thêm : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc sau Đại hội Đảng Ví dụ trước chuyến đi của ông Biden đến Việt Nam, tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã đi Trung Quốc vào cuối năm 2022. Đây là chuyến thăm phá lệ vì thông thường, từ mấy chục năm nay, sau khi được bầu làm tổng bí thư, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của tổng bí thư là sang Lào. Đây là lần đầu tiên ông Nguyễn Phú Trọng phá lệ, ông đi Trung Quốc trước. Thực ra ông chỉ đi Trung Quốc vì sức khỏe không cho phép đi nhiều.RFI : Mối quan hệ được nâng cấp cũng được xem là gắn kết về khía cạnh an ninh và quốc phòng. Trong trường hợp Việt Nam « chưa rõ ràng », hoạt động hợp tác về an ninh, quốc phòng, đặc biệt là ở Biển Đông, sẽ đi theo hướng như nào ? G.S. Alexander Vuving : Thực ra, an ninh quốc phòng được cả Việt Nam và Mỹ coi là một trụ cột quan trọng của mối quan hệ. Thế nhưng, trong vấn đề quan hệ quốc phòng, Việt Nam có chủ trương « Bốn Không » (không đi với nước này để chống lại nước kia, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?Chính vì thế vấn đề hợp tác an ninh, quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam có những hạn chế rất lớn, bởi vì Việt Nam không muốn cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam đi với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Việt Nam cũng không muốn cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam muốn sử dụng vũ lực trong quan hệ với quốc tế. Cho nên Việt Nam phải làm thế nào để Trung Quốc cảm giác là Việt Nam không muốn chiến tranh với Trung Quốc. Chẳng hạn trong những cuộc đối đầu ở Biển Đông khi Trung Quốc đưa tầu thuyền xuống để cản trở, phá hoại những hoạt động kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông, Việt Nam cũng đưa những lực lượng « không quân sự » ra tiếp cận, như kiểm ngư, cùng lắm là cảnh sát biển, chứ không phải Hải Quân. Bản thân Việt Nam nói là nâng cấp quốc phòng nhưng thực ra không đủ sức để răn đe Trung Quốc.Tóm lại, hợp tác an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ có những giới hạn rất lớn để Việt Nam thực hiện chính sách « Bốn Không » của mình.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Hawaii, Hoa Kỳ.
9/4/2023 • 11 minutes, 23 seconds
Quan hệ Trung-Việt: Bắc Kinh và Hà Nội cố trở lại con đường hòa dịu
Ngày 13/07/2023, bên lề hội nghị ngoại trưởng ASEAN tại Jakarta, bộ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đã gặp ông Vương Nghị, Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, lãnh đạo cao cấp của ngành ngoại giao Trung Quốc. Cuộc gặp giữa ông Bùi Thanh Sơn với ông Vương Nghị và trước đó là chuyến đi Trung Quốc của thủ tướng Phạm Minh Chính ( 25/06 đến 28/06 ) phải chăng cho thấy là quan hệ Việt-Trung đang hòa dịu trở lại sau những căng thẳng trong tháng 5 ở Biển Đông do vụ các tàu của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam?Trả lời RFI Việt ngữ ngày 20/07/2023, nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang, Đại học Boston, Hoa Kỳ, nhận định: "Điều này thực sự không thể nhận xét được, do lịch trình các cuộc gặp cấp cao giữa hai bên có thể đã được lên kế hoạch từ trước. Tuy vậy, việc Việt Nam, Trung Quốc vẫn có các cuộc gặp mặt cấp cao là một tín hiệu tốt cho thấy hai nước vẫn đang kiểm soát các bất đồng trên biển, tránh để ảnh hưởng đến các mặt khác của quan hệ Việt-Trung. Việt Nam mong muốn hòa bình ổn định để phát triển kinh tế, nên giữ một mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc là điều rất quan trọng".Đúng là thị trường Trung Quốc quá quan trọng đối với Việt Nam nên Hà Nội không thể để cho căng thẳng kéo dài. Theo tường trình của Thông tấn xã Việt Nam, trong cuộc gặp với ông Vương Nghị hôm 13/07, ông Bùi Thanh Sơn đề nghị Trung Quốc “tiếp tục mở rộng nhập khẩu hàng hóa và đẩy nhanh tiến độ mở cửa thị trường cho các mặt hàng của Việt Nam, nhất là nông thủy sản và hoa quả; phối hợp duy trì thông quan thông suốt trong bối cảnh nông sản Việt Nam đang vào cao điểm thu hoạch”Có qua thì phải có lại, trong cuộc gặp với bộ trưởng Ngoại Giao Việt Nam, lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc đã đề nghị hai bên “tăng cường kết nối chất lượng cao” giữa Sáng kiến “Vành đai, Con đường” với Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai”. Ông Vương Nghị còn cam kết “sẽ tạo thuận lợi để Việt Nam tận dụng hiệu quả hơn các nguồn vốn hỗ trợ của Trung Quốc”.Theo hướng hòa dịu trong quan hệ, trong cuộc gặp giữa lãnh đạo ngoại giao của Việt Nam và Trung Quốc, hai bên đã “nhất trí sẽ thực hiện tốt các thỏa thuận và nhận thức chung cấp cao; kiểm soát và xử lý thỏa đáng bất đồng; nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên biển”. Hai nước cũng cam kết sẽ cùng với các nước ASEAN “phấn đấu sớm đạt một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, phù hợp luật pháp quốc tế, bao gồm các công ước quốc tế về biển, góp phần bảo đảm hòa bình, ổn định và tự do hàng hải ở khu vực cũng như quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các bên.” Hai bên cũng khẳng định “sẽ phát huy vai trò của các cơ chế song phương trong các vấn đề biên giới lãnh thổ, lãnh hải”.Trong bài viết đăng ngày 14/07/2023, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post nhắc lại là vào đầu tháng này, các nhà ngoại giao Trung Quốc và Việt Nam cũng đã gặp nhau tại thành phố Quảng Châu trong khuôn khổ đàm phán của nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và nhóm công tác về hợp tác cùng phát triển trên biển. Đây là cuộc gặp trực tiếp đầu tiên giữa các thành viên của hai nhóm này kể từ năm 2020. Theo thông báo của phía Việt Nam, trong các cuộc đàm phán đó, hai bên đã “nhất trí nỗ lực thúc đẩy hợp tác trên biển, trong đó có việc sớm đàm phán ký kết Hiệp định mới về hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”. Theo thông cáo của phía Trung Quốc, hai bên còn “nhất trí” thúc đẩy hợp tác dầu khí ở “vùng biển không tranh chấp” ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo South China Morning Post, các nhà quan sát cho rằng có rất ít cơ hội để thỏa hiệp trong hợp tác dầu khí giữa Việt Nam và Trung Quốc do những tranh chấp chủ quyền đã kéo dài nhiều năm giữa hai nước. Cuộc gặp tại Jakarta diễn ra trong bối cảnh mà tranh chấp chủ quyền Biển Đông tiếp tục khuấy động quan hệ Việt-Trung. Vào đầu tháng 7, Hà Nội đã ra quyết định cấm chiếu ở Việt Nam bộ phim Barbie do hãng phim Mỹ Warner Bros sản xuất vì trong phim này có hình ảnh “đường lưỡi bò”, tức là bản đồ mà Trung Quốc tự vẽ nên để áp đặt chủ quyền của họ lên phần lớn Biển Đông. Trên trang mạng Eurasia Review ngày 13/07, nhà nghiên cứu James Borton, đại học Johns Hopkins, Hoa Kỳ, nhắc lại năm nay là kỷ niệm 15 năm quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” giữa Việt Nam với Trung Quốc và cũng là kỷ niệm 10 quan hệ “đối tác toàn diện” giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. James Borton nhấn mạnh cả Bắc Kinh lẫn Washington đều đang ve vãn Việt Nam, nhưng trong cuộc đua này phía Mỹ có vẻ yếu thế hơn. Ông trích nhận định của giáo sư Victor Abuza, Đại học Chiến tranh Quốc gia ở Washington: “ Bắc Kinh nay tin tưởng hơn rằng Việt Nam hành xử một cách độc lập và vẫn từ chối có bất kỳ hành động nào có thể bị Bắc Kinh xem là chống lại các lợi ích của Trung Quốc”.Chính sách của Việt Nam “đi dây” giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã một lần nữa được thể hiện rõ qua việc thủ tướng Phạm Minh Chính đã chọn đúng ngày hàng không mẫu hạm Ronald Reagan của Mỹ bắt đầu chuyến viếng thăm Việt Nam 25/06 để mở chuyến công du Trung Quốc. Phải chăng Hà Nội muốn trấn an Bắc Kinh là Việt Nam không có ý đồ gì chống Trung Quốc? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang giải thích: "Đúng là như vậy. Chính sách đối ngoại của Việt Nam từ sau chiến tranh Lạnh là giữ thế trung lập và cân bằng trên trường quốc tế. Nguồn gốc của chính sách này đến từ chính sách chảy máu trắng Việt Nam của Trung Quốc trong giai đoạn 1979-1991. Việt Nam hiểu rằng Trung Quốc sẽ có các biện pháp trừng phạt Việt Nam nếu Trung Quốc thấy là Hà Nội đang liên kết với một nước khác để chống Trung Quốc. Việt Nam không muốn có bất kỳ sự hiểu lầm nào nên chuyến thăm nhằm khẳng định cam kết với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, không dựa vào nước khác để chống Trung Quốc."Theo Vũ Xuân Khang, các chuyến thăm của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ sẽ trấn an Hà Nội về cam kết của Hoa Kỳ đối với sự ổn định khu vực và chứng tỏ rằng Việt Nam không đơn độc. Tuy nhiên, câu hỏi lớn vẫn còn: Các căn cứ hải quân của Việt Nam có thể được sử dụng về mặt chiến lược trong việc quản lý các mối quan hệ với Trung Quốc không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhấn mạnh: "Cần phải phân tích kỹ tầm quan trọng của các quân cảng của Việt Nam. Về mặt quân sự, các quân cảng của Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng khi hướng thẳng ra biển Đông. Trong quá khứ các cường quốc như Mỹ hay Liên Xô đã sử dụng các quân cảng này như một địa điểm dừng chân cho các hạm đội tiếp nhiên liệu hay thu thập thông tin tình báo. Tuy nhiên tầm quan trọng về quân sự không thể thay thế được tầm quan trọng về chính trị, thứ bị chi phối bởi tổng thể quan hệ Việt-Trung. Việt Nam vẫn là một nước nhỏ so với Trung Quốc, do đó, các quân cảng của Việt Nam, mặc dù có vị trí địa lý tốt, không thể nào giúp Việt Nam san bằng vị thế nước nhỏ của mình, nhất là khi Trung Quốc có đường biên giới trên bộ dài 1300 km và có thể đặt áp lực quân sự trên bộ trực tiếp lên Việt Nam, nơi mà các quân cảng không có nhiều giá trị. Cần nhắc lại là khi Việt Nam cho Liên Xô thuê Cam Ranh, Trung Quốc đã đặt áp lực quân sự rất lớn dưới chính sách chảy máu trắng Việt Nam bắt Hà Nội phải quy phục Bắc Kinh trong giai đoạn 1979-1991. Và với vị thế là nước lớn, Trung Quốc đã thành công đặt áp lực lên Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và từ bỏ chính sách đối ngoại chống Trung Quốc, bất chấp sự hiện diện của Liên Xô ở Cam Ranh.Điều này cho thấy là Trung Quốc không ngần ngại khi Việt Nam đón tàu của Mỹ hay các nước đồng mình vì Trung Quốc có đủ khả năng để trừng phạt Việt Nam nếu Hà Nội có bất kỳ ý đồ nào sử dụng quân cảng của mình để chống Trung Quốc. Nói cách khác thì chính vì các quân cảng của Việt Nam không thể làm thay đổi tổng thể quan hệ Việt-Trung nên Trung Quốc cũng không có phản đối gì nhiều vì họ hiểu tương quan quân sự Việt-Trung không bao giờ có thể bị san bằng bởi một vài quân cảng cả. Tất nhiên Trung Quốc cũng không muốn đẩy Việt Nam vào thế phải chống Trung Quốc, nhưng điều này không có nghĩa Trung Quốc phải sợ các quân cảng của Việt Nam. Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục thực hiện chính sách "tằm ăn dâu" nhằm mở rộng ảnh hưởng trên biển Đông.
8/28/2023 • 8 minutes, 47 seconds
Cùng bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền, Việt Nam - Ấn Độ thắt chặt hợp tác quốc phòng
Việt Nam được New Delhi khẳng định là « một quốc gia bạn hữu », khi « lần đầu tiên, Ấn Độ tặng một tầu hộ tống » INS Kirpan. Món quà được bàn giao ở cảng Cam Ranh ngày 22/07/2023, cùng với những hoạt động huấn luyện, là sự kiện đặc biệt ý nghĩa, được Hải Quân Ấn Độ nhấn mạnh là « phản ánh cam kết của Ấn Độ hỗ trợ các đối tác có chung chí hướng nâng cao năng lực và tiềm lực quốc phòng ». Chính sự hung hăng đòi chủ quyền trên biển và trên bộ, cũng như chính sách đối ngoại hiếu chiến của Bắc Kinh đã buộc Hà Nội và New Delhi thắt chặt hợp tác quân sự để cùng đối phó với một đối thủ chung là Trung Quốc, dù không nêu tên.Không chỉ hung hăng, « bắt nạt » tầu dân sự và hải cảnh của các nước ở Biển Đông, Trung Quốc gia tăng bồi đắp các đảo nhân tạo, trong đó theo thông tin ngày 16/08 của AP, sự kiện mới nhất là xây đường băng mới trên đảo Tri Tôn, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Ấn Độ và Trung Quốc tranh chấp lãnh thổ ở khu vực Ladakh, trên dãy Himalaya, với đỉnh điểm là vụ xung đột đẫm máu tháng 06/2020. Bất đồng vẫn chưa được giải quyết sau 19 vòng đàm phán, kết thúc hôm 16/08, dù hai bên nhất trí kiềm chế, « duy trì hòa bình và ổn định » dọc Đường Kiểm soát Thực tế (LAC).Ngoài ra, Ấn Độ còn là đối tác quốc phòng quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh khó nhập vũ khí từ Nga do nước này bị phương Tây cấm vận và sa lầy trong cuộc chiến ở Ukraina. Để hiểu hơn về mối quan hệ vững bền này, cũng như tiềm năng hợp tác song phương, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Úc.RFI : Việt Nam là nước đầu tiên được Ấn Độ tặng tầu hộ tống (INS Kirpan) theo lời hứa của bộ trưởng Quốc Phòng Ấn Độ khi tiếp đồng nhiệm Việt Nam ở New Delhi. Sự kiện này có ý nghĩa như thế nào đối với cả hai bên ?Nguyễn Thế Phương : Việc Ấn Độ tặng tầu hộ tống Kirpan cho Việt Nam nên đặt trong bối cảnh : sự trỗi dậy của Trung Quốc, mối quan hệ hợp tác vừa truyền thống vừa hướng tới tương lai giữa Việt Nam và Ấn Độ. Cả Ấn Độ và Việt Nam đều gặp phải những cái vấn đề rất lớn, đặc biệt là liên quan tới lãnh thổ, lãnh hải với Trung Quốc. Cả hai quốc gia đều coi Trung Quốc là một mối đe dọa an ninh tương đối rõ ràng ở hiện tại, cũng như là trong tương lai gần.Đối với Ấn Độ, từ sau vụ đụng độ giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Ladak năm 2020, trong nội bộ Ấn Độ bắt đầu thảo luận lại về nền tảng căn bản của chính sách đối ngoại, tương đối ôn hòa, tức là theo nguyên tắc không liên kết. Nhưng từ sau sự kiện Ladak, Ấn Độ nhận ra rằng với nền tảng đối ngoại cũ, dường như không ổn lắm.Đối với Việt Nam, Ấn Độ được cho là một trong những đối tác quan trọng, đáng tin cậy nhất của Việt Nam. Bởi vì rõ ràng là quan hệ an ninh quốc phòng, nói gì thì nói, cũng là mối quan hệ mang tính nhạy cảm. Một trong số các đối tác quốc tế mà Việt Nam có thể thoải mái nhất trong việc hợp tác an ninh quốc phòng là Ấn Độ. Có rất nhiều lý do. Ấn Độ và Việt Nam có một mối quan hệ đối ngoại từ những năm 1945, tức là mối quan hệ truyền thống vững chắc. Cả hai nước đều có xu hướng đối ngoại, gọi là không liên kết.Ở hiện tại, mối quan hệ giữa hai quốc gia là ngang hàng với Trung Quốc, tức là quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Và trong quan hệ an ninh quốc phòng, Việt Nam không e ngại Ấn Độ. Điểm này khá khác với phương Tây bởi vì khi hợp tác với phương Tây, luôn có vấn đề nhân quyền và một số vấn đề chính trị nhạy cảm có thể khiến cho quan hệ hợp tác quốc phòng an ninh bị chững lại. Trong quan hệ Việt Nam-Ấn Độ không có điểm này. Cho nên, tiềm năng đi tới trong lai rộng hơn rất nhiều so với phương Tây. Hạn chế duy nhất vẫn chỉ là một số hạn chế về mặt kỹ thuật và khả năng mà Việt Nam và Ấn Độ trao cho nhau trong mối quan hệ về an ninh-quốc phòng.RFI : Ấn Độ có vai trò như nào trong việc giúp Việt Nam đa dạng hóa hợp tác quốc phòng theo tinh thần « Bốn Không » và làm đối trọng với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Từ trước tới nay, cả hai bên đã có một số dự án liên quan đến hợp tác quốc phòng-an ninh. Việc Ấn Độ trao tầu cho Việt Nam đáng lẽ nên xảy ra từ năm 2011 khi chủ tịch nước Việt Nam lúc đó là Trương Tấn Sang thăm Ấn Độ và ông có mấy đề xuất với Ấn Độ. Đa số các đề xuất đó đã được thực hiện, ví dụ Ấn Độ đào tạo thủy thủ tầu ngầm, phi công máy bay chiến đấu cho Việt Nam, đồng thời hai bên cũng trao đổi một số vấn đề mang tính kỹ thuật và hợp tác về công nghệ quốc phòng.Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lúc đó cũng yêu cầu Ấn Độ có thể tặng lại một tầu hải quân nào đó cho Việt Nam nhưng Ấn Độ đã không đồng ý bởi vì trong giai đoạn đó, Ấn Độ đi theo chính sách ngoại giao không liên kết, họ cũng không muốn chọc giận Trung Quốc và không muốn làm tình hình căng thẳng. Nhưng tới hiện tại, năm 2023, Ấn Độ đã đồng ý với đề nghị mà Việt Nam đưa ra 12 năm trước đó. Việc này cho thấy sự biến chuyển tương đối lớn trong cách tiếp cận của Ấn Độ đối với tình hình trong khu vực, cũng như chính sách đối ngoại, quốc phòng của Ấn Độ. Đọc thêm : Chính sách quốc phòng "Bốn Không" của Việt Nam và thực tế ở Biển ĐôngẤn Độ có mối quan hệ khá chặt chẽ với Nga. Họ cũng có mối quan hệ an ninh, quốc phòng rất tốt với phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Vậy điểm mà Việt Nam có thể học hỏi ở đây là gì ? Thứ nhất, Ấn Độ có kinh nghiệm trong việc tiếp xúc với hai hệ thống công nghệ quốc phòng. Và điều này đặc biệt quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang cố gắng đa dạng hóa nguồn cung quốc phòng, ngoài Nga. Sắp tới, Việt Nam có thể mua một số trang thiết bị vũ khí, cũng như là tiếp nhận công nghệ công nghiệp quốc phòng của các nước phương Tây, với hệ vũ khí phương Tây. Và với kinh nghiệm của Ấn Độ, họ có thể giúp Việt Nam điều hòa hai công nghệ vũ khí đó lại với nhau để tạo ra một hệ thống vũ khí phù hợp với đặc trưng, cách đánh và chiến thuật của Việt Nam. Về việc này, Ấn Độ và Israel rất có kinh nghiệm. Thứ hai, Ấn Độ có kinh nghiệm trong việc phát triển nền quốc phòng nội địa khá hiệu quả. Đây cũng là điều Việt Nam cần học hỏi vì bản thân của một nền quốc phòng mạnh là khi có thể tự sản xuất các loại vũ khí quan trọng cho riêng mình mà không cần phải mua. Khi chiến tranh xảy ra, họ có thể có đủ khả năng duy trì khả năng chiến đấu. Công nghiệp quốc phòng và nền tảng công nghiệp quốc phòng là điểm mạnh của Ấn Độ. Họ cũng mong muốn xuất khẩu một số loại vũ khí nội địa sang Việt Nam. Điều này hiện nay chưa diễn ra được nhưng sắp tới hoàn toàn có thể là Ấn Độ cung cấp một số loại vũ khí cho Việt Nam. Điểm thứ ba mà Việt Nam có thể hợp tác với Ấn Độ là về mặt an ninh hàng hải. Không chỉ liên quan đến vũ khí mà còn có thể là trao đổi về mặt chiến thuật-chiến lược. Các tầu hải quân Ấn Độ thăm Việt Nam, cũng như là tập trận với Hải Quân Việt Nam hoặc trong các vấn đề liên quan tới chống cướp biển, bảo vệ những tuyến đường biển quan trọng. Khi mà Việt Nam, cũng như ASEAN, là một trong những đối tác quan trọng của Ấn Độ, đặt trong bối cảnh « chính sách hướng Đông », vấn đề an ninh hàng hải trỗi dậy, đồng thời cũng phù hợp với bối cảnh Hải Quân Trung Quốc hiện diện ngày càng nhiều ở Ấn Độ Dương, khu vực mà bản thân Ấn Độ cho là vùng ảnh hưởng của mình. Có thể tạm gọi là ba lĩnh vực quốc phòng mà Ấn Độ và Việt Nam có thể hợp tác sâu hơn trong tương lai. Ngoài ra, hoàn toàn có thể mở rộng ra những hợp tác mới, ví dụ an ninh mạng, vệ tinh, tích hợp công nghệ của thời đại 4.0 vào quốc phòng như IA… Đó là những mảng cụ thể trong hợp tác an ninh, quốc phòng mà cả hai quốc gia Ấn Độ-Việt Nam có thể tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa trong tương lai. RFI : Ấn Độ tiếp tục hợp tác quốc phòng với Nga. Liệu đây có phải là cách đi vòng giúp Việt Nam tiếp tục trang bị hoặc mua thiết bị bảo trì của Nga để tránh các biện pháp trừng phạt của phương Tây ? Nguyễn Thế Phương : Nói là « đi vòng » cũng không hoàn toàn chính xác bởi vĩ vũ khí Nga ở Ấn Độ hiện tại đã thay đổi một chút cho phù hợp với cách đánh của Ấn Độ, cho nên trong một số trường hợp cũng không hoàn toàn phù hợp.Nhưng vấn đề căn bản ở đây không hoàn toàn là vũ khí mà nằm ở những thiết bị và phụ tùng có liên quan. Trước đây, Việt Nam phải mua trực tiếp từ Nga. Nhưng trong bối cảnh hiện tại, khi mà Nga bị cấm vận và khả năng sản xuất của ngành công nghiệp quốc phòng Nga hiện tập trung chủ yếu cho cuộc chiến, Việt Nam khó tiếp cận được những phụ tùng như vậy. Và Ấn Độ là một trong những đối tác có thể thay thế cho Nga trong vấn đề về phụ tùng, bảo trì, bảo dưỡng. Còn toàn bộ vũ khí thì có vẻ hơi khó bởi vì trong một số hợp đồng quốc phòng có một số điều kiện ràng buộc ví dụ như không được bán vũ khí cho bên thứ ba. Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụtĐiểm quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, như đã nói ở trên, thứ nhất đó là kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc chế tạo các loại vũ khí hệ Nga. Cái này Việt Nam có thể tiếp cận được. Thứ hai là phụ tùng thay thế mà Việt Nam có thể mua từ Ấn Độ, thay thế cho nguồn cung hiện bị thắt chặt từ Nga. Đây là hai điểm liên quan tới Nga mà Việt Nam có thể tận dụng trong mối quan hệ quốc phòng đang lên giữa hai nước. RFI : Ấn Độ cũng thắt chặt hợp tức quân sự với Mỹ, chế tạo vũ khí chung. Việt Nam có thể tiếp cận nguồn cung vũ khí này, như đã làm với Israel, trong khi Hoa Kỳ vẫn chưa chính thức bật đèn xanh bán vũ khí cho Việt Nam, còn Hà Nội cũng tránh mua trực tiếp để tránh khiến Bắc Kinh giận dữ ?Nguyễn Thế Phương : Điểm này đúng. Việt Nam có thể tiếp cận và coi Ấn Độ là một trong những nhà cung cấp vũ khí quốc phòng trong tương lai. Nhưng ở đây cũng có một số điểm yếu. Về mặt truyền thống, Việt Nam hiếm khi mua một loại vũ khí tích hợp nhiều loại công nghệ khác nhau. Hợp đồng Brahmos là ví dụ cụ thể nhất vì Brahmos vừa có công nghệ Ấn Độ, vừa có cả công nghệ Nga. Tuy nhiên, tiềm năng vẫn là có. Vế thứ hai liên quan đến việc Hoa Kỳ chưa chính thức bật đèn xanh bán vũ khí cho Việt Nam và Hà Nội cũng tránh mua trực tiếp vũ khí Mỹ để tránh làm Bắc Kinh phật lòng, cũng hoàn toàn không hẳn, mà là đến từ bản thân nhu cầu và mong muốn của Việt Nam. Các công ty quốc phòng Hoa Kỳ liên tục qua Việt Nam và họ liên tục làm truyền thông để thuyết phục Việt Nam mua. Nhưng vấn đề là Việt Nam chưa muốn, chứ không phải là Hoa Kỳ chưa bật đèn xanh.Một truyền thống từ trước đến giờ mà chưa bao giờ bị phá vỡ là Việt Nam không bao giờ mua vũ khí, tạm gọi là « vũ khí nóng », tức là có thể đánh nhau được, của Mỹ và của Trung Quốc. Truyền thống này trong tương lai chắc cũng khó có thể bị phá vỡ. Đọc thêm : Việt Nam gia tăng hợp tác quân sự với Israel nhằm làm chủ công nghệ quốc phòngViệt Nam có thể mua một số loại vũ khí hạng nhẹ như đồ dành cho huấn luyện, thiết bị cảnh báo kiểm soát. Hoặc là Việt Nam mua đồ đã qua sử dụng của một nước khác, như Nhật mua đồ của Mỹ, sau một khoảng thời gian dài Nhật muốn chuyển qua cho Việt Nam. Việt Nam nhập đồ « second hand », chứ không mua trực tiếp của Mỹ. Còn đối với Trung Quốc, Việt Nam sẽ chỉ mua một số thiết bị không tác động đến tác chiến, như gần đây có thông tin Việt Nam mua một số công cụ máy móc cho công binh để phục vụ cho các chương trình gìn giữ hòa bình với nước ngoài.Vậy vai trò của Ấn Độ là gì ? Đó là Ấn Độ, cũng giống như Hàn Quốc và Nhật Bản, có thể tiếp cận công nghệ vũ khí của phương Tây và với nền công nghiệp quốc phòng mạnh của những quốc gia đó, trong đó có Ấn Độ, họ có thể tự tạo ra các loại vũ khí « made in India », « made in Japan » hoặc « made in Korea » mà Việt Nam có thể tiếp cận theo hướng trung gian như vậy. Do đó, vai trò của Ấn Độ ở đây có liên quan tới bán các loại vũ khí mà Ấn Độ sản xuất, trong đó có công nghệ Mỹ, cho Việt Nam và giúp cho Việt Nam có thể tiếp cận được một số công nghệ lõi, công nghệ nguồn có yếu tố phương Tây, giúp cho Việt Nam có thể phát triển toàn bộ nền công nghiệp quốc phòng nội địa của Việt Nam hiện tại. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Úc.
8/21/2023 • 11 minutes, 43 seconds
Nguy cơ khủng hoảng Việt- Đức lần 2 nếu cựu chủ tịch công ty AIC bị "bắt cóc"
Berlin cảnh giác cao độ về khả năng mật vụ Việt Nam bắt cóc bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, cựu chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế - AIC, ngay trên lãnh thổ Đức. Nữ doanh nhân 56 tuổi bị truy nã trong ba vụ án hình sự liên quan đến đấu thầu, hối lộ. Theo nhiều cơ quan truyền thông Slovakia và Đức, bà Nhàn đã ở Đức « được vài tháng ». Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị cáo buộc lũng đoạn đấu thầu trong các gói thầu tại Bệnh viện Đồng Nai, Trung tâm Công nghệ sinh học thành phố Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan, Bệnh viện Sản-Nhi Quảng Ninh. Vào cuối năm 2022, bà Nhàn bị kết án vắng mặt tổng cộng 30 năm tù trong vụ đầu tiên. Hai vụ tiếp theo vẫn đang trong quá trình xét xử.Vào tháng 05/2022, khi xác định bà Nhàn đã bỏ trốn, cơ quan Cảnh sát điều tra bộ Công An phát lệnh truy nã bà Nhàn và 7 người khác gồm cấp dưới tại công ty AIC và lãnh đạo một số doanh nghiệp thân quen. Theo trang TAZ của Đức, bà Nhàn dường như đã đến Nhật Bản, sau đó qua Luân Đôn (Anh) và đã đến Đức từ vài tháng nay.Trang Thoibao.de hôm 11/08 cho biết Việt Nam đã gửi cho Đức đơn yêu cầu dẫn độ bà Nhàn, nhưng Sở Tư pháp Liên bang Đức đã bác đơn này. Đồng thời, bộ Ngoại Giao Đức được cho là đã cảnh cáo Việt Nam là « sẽ không tha thứ cho bất kỳ sự can thiệp nào của các quốc gia nước ngoài trên lãnh thổ Đức ». Cảnh sát Đức cũng đã liên lạc trực tiếp với bà Nhàn và cảnh báo về tình trạng nguy hiểm của bà.Liệu một vụ bắt cóc thứ hai có khả năng xảy ra hay không ? Trong trường hợp xảy ra, việc này sẽ tác động đến quan hệ ngoại giao Việt Nam và Đức như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà báo Trung Khoa của trang Thoibao.de tại Berlin.RFI : Một số cơ quan truyền thông Slovakia và Đức đưa tin là bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, nguyên chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty AIC đang ở Đức. Xin anh cho biết những thông tin mới nhất về vụ việc ! Nhà báo Trung Khoa : Những thông tin mà tôi tổng hợp và nhận được thì rất nhiều. Đầu tiên, chúng ta cũng biết thông tin bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn bỏ trốn đã được công bố, sau đó Việt Nam đã phát lệnh truy nã. Thông tin gần đây nhất mà chúng tôi nhận được là bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã sang Đức.Sau đó, các tờ báo của Đức, của quốc tế lần lượt đưa tin sau khi họ hỏi chính quyền Đức. Họ được biết những thông tin rất nhạy cảm. Những thông tin này được đưa ra và đăng trên các tạp chí, cũng như là trên Đài truyền hình Slovakia RTVS tối 05/08, cũng như là trên báo TAZ của Đức vào ngày 06/08, trong đó có rất nhiều thông tin đặc biệt về việc bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đang ở Đức.RFI : Có tin nói rằng đề nghị dẫn độ bà Nhàn từ phía Việt Nam nhưng từ chối. Liệu có lý do nào giải thích quyết định của Đức ? Nhà báo Trung Khoa : Tôi nghĩ chính quyền Đức từ chối bởi vì lần trước khi vụ án ông Trịnh Xuân Thanh xảy ra vào năm 2017, khi đó phía việt Nam cũng đã đề nghị dẫn độ nhưng bà thủ tướng Angela Merkel lúc đó trả lời rằng việc này là do bên cơ quan Tư pháp làm. Dường như Việt Nam không đợi được các cơ quan Tư pháp của Đức làm việc tiếp mà họ đã bắt cóc.Vụ việc của bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn khá giống với trường hợp của ông Trịnh Xuân Thanh trước đây. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Thanh Nhà là người có nhiều mối quan hệ và nhiều thông tin quan trọng hơn ông Trịnh Xuân Thanh rất nhiều. Và bà cũng không đi một mình mà đi cùng với rất nhiều cộng sự của bà. Trước khi việc truy tố diễn ra ở Việt Nam, bà Nhàn đã chuẩn bị rất kỹ.Ở Đức là tam quyền phân lập. Đức chưa có hiệp định về dẫn độ, giữa hai nước cũng chưa có hiệp định tương trợ tư pháp. Còn phía Việt Nam cũng đang rất cố gắng để tìm cách đưa bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn về. Nhưng phía Đức, đó là Nhà nước pháp quyền nên bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn chắc chắn sẽ có những luật sư để bảo vệ bà chống dẫn độ về Việt Nam.RFI : Anh nghĩ Đức sẽ phản ứng như thế nào nếu xảy ra trường hợp bắt cóc thứ 2 ? Việt Nam có khả năng làm không sau khi đã xảy ra sự cố, căng thẳng ngoại giao và bị chỉ trích sau vụ bắt cóc lần trước ? Nhà báo Trung Khoa : Rõ ràng là những thông tin mà báo chí Đức đã đăng tải sau khi họ có những nguồn tin từ nội bộ chính phủ Đức đưa ra là phía Đức đã cảnh báo phía Việt Nam là không được làm vụ bắt cóc lần nữa. Nếu Việt Nam vẫn cố tình làm thì đương nhiên nước Đức, một Nhà nước pháp quyền, nói rõ là sẽ không chấp nhận và dung thứ cho bất cứ hành động nào như vậy trên đất nước Đức nữa.Đầu tiên nếu Việt Nam bắt có thì có thể phía Đức sẽ trục xuất ông đại sứ hiện nay của Việt Nam tại Đức chẳng hạn. Còn chuyện chấm dứt quan hệ với Việt Nam, tôi nghĩ chắc là không, bởi vì Đức cũng có những mối quan hệ và những mối quan tâm về mặt chiến lược tại Việt Nam. Nhưng những chương trình, những dự án hỗ trợ Việt Nam hoặc những công việc khác của chính phủ Đức với Việt Nam và giữa hai nước sẽ bị đóng băng trong thời gian rất dài.Tôi nghĩ rằng phía Việt Nam, không phải là một Nhà nước pháp quyền, cho nên họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì, miễn là đạt được mục đích của mình. Qua những sự việc đã diễn ra từ trước đến nay, chúng ta có nhiều bằng chứng rõ ràng. Cho nên phía Đức, mặc dù đã cảnh báo như vậy, nhưng họ cũng đã gặp gỡ trực tiếp bà Nhàn, theo như báo chí Đức đăng tải, để cảnh báo bà cẩn thận với những cơ quan của Việt Nam. Họ có thể tiếp cận và tìm cách đưa bà về Việt Nam hoặc là có những hành động bất hợp pháp tại Đức.RFI : Liệu anh có những thông tin là phía Việt Nam đang tiến hành những thủ tục và hợp tác với Đức như thế nào để phía Đức đồng ý đưa bà Nhàn về Việt Nam ? Nhà báo Trung Khoa : Đương nhiên, như đã nói, phía Việt Nam luôn tìm mọi cách để đưa bà Nhàn về, không chỉ ở Đức mà ở bất cứ nước nào, nếu họ phát hiện bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đang ở quốc gia đó.Việc đưa bà Nhàn về, nếu dùng các thủ tục pháp lý, cũng phải trải qua những quy trình rất rõ ràng, minh bạch. Và bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn cũng có những luật sư của bà để bảo vệ cho thân chủ. Tôi nghĩ rằng việc đưa bà Nhàn về theo hình thức đó là rất khó, bởi vì nước Đức là một Nhà nước pháp quyền, họ sẽ thực hiện theo đúng Hiến Pháp, cũng như pháp luật của họ.RFI : Nhưng trong trường hợp như vậy, có thể có những ý kiến cho rằng Đức dung túng, bao che cho một tội phạm đang bị truy nã ở Việt Nam !Nhà báo Trung Khoa : Phải nói là khi bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn sang Đức, cũng giống như trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh khi sang đến Đức, lúc đó họ chưa hề bị lệnh truy nã nào và cũng chưa bị truy tố. Vậy thì không thể nói rằng bà là một tội phạm.Còn ở phía Đức, họ coi những tòa án ở Việt Nam là không độc lập, tức là đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam, cho nên những quyết định của những tòa án đó thường mang tính chất là đã được định sẵn, mà người ta hay gọi là « án bỏ túi ». Cho nên, điều đó rất khó xảy ra đối với phía Đức, khi họ có thể là bằng sức ép nào đó của Việt Nam, để có thể dẫn độ bà Nhàn về Việt Nam theo như mong muốn của nhà cầm quyền ở Hà Nội. Đó là thông tin mà tôi nghĩ rằng sẽ diễn ra như vậy.Và vụ việc này chưa chấm dứt ở đây. Chắc chắn sẽ còn những thông tin mới trong thời gian sắp tới đối với vụ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn trốn ra nước ngoài và được báo chí Đức và quốc tế đăng tải là được phát hiện đang ở Đức.RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Trung Khoa tại Berlin !Khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân ThanhÔng Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc ngay giữa thủ đô Berlin ngày 23/07/2017. Vụ bắt cóc được tính toán kỹ, ly kỳ, lợi dụng quan hệ ngoại giao với Slovakia để đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khối Schengen và về Việt Nam. Tư pháp Đức vẫn tiếp tục điều tra vụ việc.Trang tin Đức DW nhắc lại hôm 02/06/2022 : « Chính phủ Đức coi vụ bắt cóc là xâm phạm chủ quyền quốc gia. Đức cũng từng trục xuất hai nhà ngoại giao Việt Nam vì vụ bắt cóc và bày tỏ phản đối với đại sứ Việt Nam ». Sau sự kiện gây chấn động này, chính phủ Đức đã quyết định tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam kể từ ngày 22/09/2017, sau đó là tạm đình chỉ hiệp định giữa hai nước về việc miễn thị thực (visa) đối với hộ chiếu ngoại giao Việt Nam.Ngày 01/11/2018, thứ trưởng thường trực bộ Ngoại Giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đã sang Berlin để đàm phán với phía Đức nhằm hàn gắn lại mối quan hệ ngoại giao đã bị khủng hoảng sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Sau đó, khi được trang TAZ đặt câu hỏi, bộ Ngoại Giao Đức chỉ xác nhận là « có cuộc đàm phán tại bộ Ngoại Giao ngày hôm nay (thứ Năm ngày 01/11/2018) » trong « quá trình trao đổi chặt chẽ » với Việt Nam về « các vấn đề quốc tế và song phương ». Mối quan hệ Việt-Đức được cho là bước sang một chương mới với chuyến công du Hà Nội của thủ tướng Olaf Scholz trong hai ngày 13-14/11/2022. Nhưng chưa đầy một năm sau, sóng gió lại có thể nổi lên với vụ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn.
8/14/2023 • 8 minutes, 58 seconds
Du lịch Việt Nam đủ nguồn lực chuyên môn cao để hướng đến khách “giàu” ?
Việt Nam muốn tái cơ cấu ngành du lịch, trong đó chú trọng thị trường có khả năng chỉ trả cao. Một trong các nút thắt đầu tiên được tháo gỡ là chính sách nới lỏng thị thực có hiệu lực từ ngày 15/08/2023 được kỳ vọng sẽ giúp thu hút nhiều khách quốc tế hơn, trong khi tháng Bẩy đã là tháng kỷ lục đón hơn 1 triệu khách kể từ sau dịch Covid-19. Nếu nhìn vào thống kê số lượng và thành phần khách nước ngoài đến Việt Nam trong tháng 07, được trang Vietnamnet trích dẫn ngày 31/07, khách châu Âu đứng đầu trong số các châu lục, tăng 27% so với tháng 06. Các thị trường đóng góp chính là Anh, Pháp, Đức, tiếp theo phải kể đến Na Uy, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Nga… Chính sách nới lỏng thị thực được kỳ vọng sẽ mở đường cho rất nhiều luồng khách mới, đặc biệt là khách tự đi, gia đình, nhỏ lẻ.Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam Vũ Thế Bình, được trang Vietnamnet trích dẫn ngày 11/07, không phủ nhận là chính sách trên có thể tạo điều kiện dễ dàng hơn cho khách quốc tế đến Việt Nam nhưng cái khó là làm thể nào để khách ở dài ngày hơn, chi tiêu nhiều hơn. Theo ông, « nếu khách đến mà họ không thích thú, không chi nhiều tiên hơn, không ở dài ngày hơn thì việc thu hút về số lượng cũng không còn nhiều ý nghĩa ».Hiện tại, du lịch Việt Nam đã phải đối mặt với thách thức lớn nhất là chi phí cao hơn so với một số thị trường trong khu vực, như Thái Lan, Lào, Cam Bốt… Vẫn theo trang Vietnamnet, « du lịch Việt Nam vẫn nghĩ ngắn, muốn thu tiền ngay lập tức, đưa ra mức giá thu đủ nên thường cao », thêm vào đó là sự thiếu gắn kết giữa các ngành nghề nên thường đẩy giá chi phí (vận chuyển, nhà hàng…) dẫn đến « kết cục vẫn bị mang tiếng là đắt ».Ngoài thách thức về cơ cấu, cách làm du lịch, Việt Nam cũng cần xem lại việc bảo tồn di sản, thiên nhiên, có đội ngũ nhân viên chuyên môn cao, tạo được những chương trình khám phá đa dạng cho du khách, có như vậy mới hy vọng « trở thành thị trường du lịch sang trọng, đón được những vị khách chi trả cao và ở dài ngày ».Trả lời RFI Tiếng Việt, giáo sư địa lý Jean-Yves Puyo, của Đại học Pau et des Pays de l'Adour (UPPA), tham gia giảng dạy chuyên ngành « Địa lý và Du lịch » ở Việt Nam trong nhiều năm, nhận định một số điểm về du lịch Việt Nam.RFI : Giáo sư Jean-Yves Puyo, ông là nhà địa lý học, nhà nghiên cứu của Đại học Pau et des Pays de l'Adour (UPPA). Ông giảng dạy chuyên ngành du lịch trong nhiều năm ở thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ hợp tác đại học. Tại đây, ông được đề xuất tập trung vào chương trình đào tạo các nhà quản lý du lịch vì Việt Nam bị thiếu. Xin ông giải thích thêm về điều này !GS. Jean-Yves Puyo : Tôi là nhà địa lý. Trong 10 năm, tôi là đồng phụ trách bộ môn « Địa lý và Du lịch » thuộc Tổ chức Đại học Pháp ngữ (Agence universitaire de la Francophonie, AUF), lúc đó gọi là Văn phòng châu Á-Thái Bình Dương, còn hiện giờ Vùng châu Á-Thái Bình Dương. Đồng phụ trách với tôi lúc đó là bà Võ Sáng Xuân Lan, hiện làm trưởng Khoa Ngôn ngữ, Du lịch và Văn hóa Đại học Thái Bình Dương. Nhờ hoạt động này, tôi đối mặt với những câu hỏi lớn, những vấn đề lớn của ngành du lịch Việt Nam. Vấn đề đặt ra lúc đó là đào tạo sinh viên trẻ trong lĩnh vực này. Song song với hoạt động giảng dạy là hoạt động nghiên cứu nhằm tìm cách mang lại những hướng suy nghi khác nhau để thử dung hòa du lịch với những nhu cầu của các cộng đồng ở địa phương. Làm thế nào để du lịch cũng có thể giúp chống nghèo đói ? Trong khuôn khổ đó, chúng tôi đã tổ chức ba hội thảo quốc tế lớn từ năm 2008 đến 2011 và hiện vẫn có thể tìm thấy thông tin trên internet. Trong khuôn khổ chương trình « Địa lý và Du lịch », rất nhiều lần chúng tôi đã tập trung các nhà hoạt động trong ngành du lịch, kể cả từ các đô thị lớn là thành phố Hồ Chí Minh, cũng như những người Pháp, châu Âu phụ trách quản lý các tập đoàn lớn để hỏi về những nhu cầu của họ. Nhu cầu chủ yếu trong lĩnh vực đào tạo du lịch là các nhà quản lý. Có nghĩa là những sinh viên ở trình độ cao học, chứ không phải là những hướng dẫn viên có trình độ ngoại ngữ, như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp. Có thể thấy các tập đoàn khách sạn, dù lớn hay nhỏ, thiếu và thực sự cần tuyển dụng thanh niên Việt Nam ở cấp quản lý.Xuất phát từ những nhu cầu trên, bà Võ Sáng Xuân Lan, đồng nghiệp của tôi, đã đào tạo hai nhà quản lý trẻ ở Đại học Văn Lang. Lúc đó, Tổ chức Đại học Pháp ngữ có nhiều chương trình học bổng đào tạo, hai sinh viên này đã được cấp học bổng sang Pháp học thạc sĩ chuyên ngành « Khách sạn và Quản lý », một người học ở Angers, một người ở Perpignan.Nhu cầu về quản lý vẫn còn rất rõ cho đến những năm 2016-2017. Tôi biết là Việt Nam đã rất cố gắng về ngành đạo tạo này nhưng hiện giờ, trừ phi tôi nhầm lẫn, vẫn còn phải được phát triển. RFI : Việt Nam có rất nhiều tiềm năng du lịch, nhưng dường như lại không được khai thác hết. Liệu có một số nguyên nhân giải thích cho việc này ? GS. Jean-Yves Puyo : Nguyên nhân có thể là do một phần hình ảnh mà Việt Nam mang lại cho hoạt động du lịch. Chúng ta biết là đa số các công ty lữ hành đề xuất « đi xuyên Việt » trong vòng 15 ngày, từ vịnh Hạ Long, Hà Nội, Huế, đến thành phố Hồ Chí Minh hay Bến Tre, đồng bằng sông Cửu Long chẳng hạn. Du khách mua « tour » kiểu này có cảm giác là họ đã đi hết Việt Nam trong 15 ngày. Dĩ nhiên là không phải như vậy ! Thế nên, tôi cho rằng khó khăn lớn nhất là khiến một người đã theo tour theo kiểu này quay trở lại. Thực vậy, chỉ trong 15 ngày, có rất nhiều địa điểm du lịch họ không đến, chẳng hạn họ không đi Đà Lạt hoặc không đến Phan Thiết hay Nha Trang… Cho nên, phải thay đổi một chút cách nghĩ là họ có thể đi hết Việt Nam chỉ trong vài ngày. Phải nghĩ cách làm thế nào nâng giá trị những khu vực khác ? Làm thế nào để đề xuất nhiều chương trình du lịch dài hơn, ví dụ 15 ngày ở miền bắc, 15 ngày ở miền trung, 15 ngày ở miền nam, để sau chuyến đi đầu tiên, du khách muốn trở lại. Tôi nghĩ đến đồng hương Pháp của mình, những người luôn hào hứng được quay lại Việt Nam. Nhưng phải kích thích được mong muốn trở lại khám phá những địa danh khác.Vì thế, có lẽ phải nghĩ đến các chương trình du lịch, không đề xuất « trọn gói » từ Bắc xuống Nam chỉ trong 15 ngày nữa vì điều đó khiến một du khách không đọc, hoặc không quan tâm, có cảm tưởng là họ đã xem được tất cả. Họ nghĩ là đã xong Việt Nam và giờ chuyển sang nước khác. RFI : Ông nêu ở trên về du lịch, có thể gọi là « đại trà », nhưng cũng phải nhắc đến nhiều du khách phương Tây đánh giá cao du lịch bền vững, du lịch sinh thái ở Việt Nam. Tuy nhiên, người ta cũng thấy hiện tượng bê tông hóa, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Liệu đây có phải là một điểm tiêu cực hoặc làm giảm bớt sức hấp dẫn trong mắt họ không ? GS. Jean-Yves Puyo : Có. Đối với tôi, việc này hoàn toàn hiển nhiên. Đây là điểm cần rất nhiều thời gian để phân tích. Du khách đến Việt Nam là để tìm kiếm điều gì đó khác lạ, ví dụ một du khách Pháp có thể tìm thấy bãi biển đẹp gần nơi họ ở hơn rất nhiều là đến tận Việt Nam. Khi họ đến thành phố Hồ Chí Minh, họ không đến để nhìn thấy Bangkok mà họ đến vì một thành phố của Việt Nam. Thế mà hiện giờ, chúng ta thấy gì ở những trung tâm lịch sử ? Dù là ở thành phố Hồ Chí Minh hay ở Hà Nội, một số di tích ít nhiều được coi là di sản, phải thú nhận rằng chúng đã bị phá. Người ta chỉ giữ lại những địa danh biểu tượng nhất. Dĩ nhiên, ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi nghĩ là sẽ không bao giờ người ta phá Nhà thờ lớn hay Bưu điện, người ta cũng sẽ không bao giờ phá khách sạn Majestic hoặc khách sạn Continental. Nhưng cũng ngay trong quận 1 trung tâm lịch sử này, những người biết đến lịch sử thành phố chỉ cần đi dạo một vòng cũng có thể lập được danh sách những tòa nhà có ý nghĩa quá khứ hoặc đại diện cho di sản văn hóa, di sản kiến trúc, đã bị phá. Và thay vào đó là gì ? Thay vào đó là những tòa nhà chọc trời. Đối với một du khách muốn khám phá góc di sản và lịch sử thì họ không muốn ngắm những tòa nhà mới đó. Vì thế tôi cho rằng sức hấp dẫn đã giảm rõ rệt. Nếu theo cách nhìn bi kịch của tôi, những gì đã bị phá thì biến mất vĩnh viễn, không thể lấy lại. Đối với tôi, những dự án hiện đại hóa các khu trung tâm thành phố này đã phá hủy một di sản kế thừa có giá trị di sản cao. Đây thực sự là một điểm tiêu cực. Và phải nhắc lại rằng du khách không đến Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh để như lại nhìn thấy Bangkok với những tòa nhà chọc trời. RFI : Hiện có những ý kiến cho rằng thiếu địa điểm, hoạt động giải trí ở các thành phố ở Việt Nam, như Hà Nội. « Thiếu sót » này nên được giải thích như thế nào ? GS. Jean-Yves Puyo : Các thành phố lớn có thiếu địa điểm giải trí không, nhất là ở Hà Nội ? Thực sự tôi nghĩ là không, bởi vì du khách quan tâm đến hoạt động về đêm chẳng hạn, họ sẽ không đến Việt Nam mà đến Ibiza ví dụ thế, hoặc phải đến một số địa điểm rất nổi tiếng để vui chơi suốt đêm hoặc đến các sàn nhẩy… Liệu Việt Nam có lợi thực sự khi thử lá bài này không ? Thật lòng mà nói, tôi không nghĩ vậy, bởi vì để cạnh tranh được với những địa điểm du lịch đã rất nổi tiếng về giải trí, thì sẽ vô cùng khó cho Việt Nam. Và liệu họ có muốn điều này không ? Tôi cũng nghĩ là không. Nếu tôi ở vị trí đó, tôi sẽ nghĩ tổng quát hơn, ví dụ về việc làm thế nào để phát triển dòng du khách nước ngoài đến Việt Nam ? Tôi sẽ tập trung hơn vào các hạng mục di sản, văn hóa, môi trường và vẻ đẹp thiên nhiên. Và ở điểm này, có rất nhiều việc phải làm và theo tôi, nhiều việc hiện vẫn ít được phát triển. Tôi lấy ví dụ một đồng nghiệp của tôi, rất thích đi bộ dã ngoại và vừa đi du lịch Việt Nam về. Đáng tiếc là ông ấy có chút thất vọng về việc thiếu chương trình đi bộ dã ngoại và cũng hơi thất vọng về chuyến du lịch ở Việt Nam.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm giáo sư địa lý Jean-Yves Puyo, Đại học Pau et des Pays de l’Adour.
8/7/2023 • 9 minutes, 19 seconds
Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương : Việt Nam và ASEAN chọn lợi ích nhưng không chọn phe
« Ấn Độ-Thái Bình Dương là khu vực năng động nhất trên thế giới và tương lai của nó ảnh hưởng đến mọi người ở mọi nơi ». Nhận định này của Washington cũng là cơ sở để Mỹ, cũng như nhiều cường quốc khác, xây dựng chiến lược đối với khu vực có tầm địa-chiến lược quan trọng, trong đó có Biển Đông và khu vực Đông Nam Á. Các nước thành viên ASEAN trở thành trọng tâm trong các chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp (2018), Liên Hiệp Châu Âu (2021), Hoa Kỳ (2022), Hàn Quốc (2022), Nhật Bản (phiên bản mới 2023), cũng như mong muốn mở rộng « sự hiện diện rộng nhất, bao trùm nhất » của Anh Quốc trong khu vực. Ngoài mục đích an ninh, dù không nêu đích danh nhưng Trung Quốc luôn là « đối thủ » bị ngầm ngắm tới, những chiến lược này đặt trọng tâm vào hợp tác kinh tế, môi trường, bảo vệ sự hiện diện, lợi ích của họtrong khu vực và hạn chế ảnh hưởng của Bắc Kinh. Một « chủ nghĩa đế quốc mới » đang trỗi dậy ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương và châu Đại Dương, theo phát biểu của tổng thống Pháp tại Vanuatu nhân chuyến công du châu Đại Dương trong tuần qua, ám chỉ đến những nỗ lực bành trước của Trung Quốc. Để hiểu rõ hơn về khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương và tầm quan trọng của khu vực, tạp chí Hérodote của Pháp, chuyên về địa lý và địa-chính trị, ra số đặc biệt quý II/2023 đề cập đến « Những cách nhìn địa-chính trị về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương ». Trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, đồng chủ biên số đặc biệt, giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, nhận định trước những chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương, Việt Nam và các nước Đông Nam Á chọn lợi ích nhưng không chọn phe.RFI : Tạp chí Hérodote ra số đặc biệt về những thách thức địa-chính trị ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương rộng lớn. Tại sao chủ đề này được đề cập riêng trong một số ?Benoît de Tréglodé : Hiện giờ, « Ấn Độ-Thái Bình Dương » là một khái niệm rất thịnh hành và được các chuyên gia về châu Á, cũng như tại các bộ và các đại sứ quán ở các nước châu Á sử dụng nhiều. Trước hết là do sự trỗi dậy, đúng hơn là nhờ vào việc ý thức được sự xác quyết của Trung Quốc, cũng như sự trỗi dậy của Ấn Độ ở châu Á, cùng những hệ quả có thể xảy ra đối với châu Âu, với Pháp, và nhất là sự hiện diện của Mỹ ở trong vùng và ở Ấn Độ Dương. Do đó phải suy nghĩ lại một cách tổng thể mối quan hệ của các nước phương Tây với châu Á. Châu Á, hiểu đơn thuần theo nghĩa địa lý, không còn đủ nữa. Từ giờ, vấn đề địa-chính trị gộp cả vế ngoại giao, kinh tế, chính trị, cần đến một vùng rộng hơn bao trùm tất cả. Chính vì thế, « Ấn Độ-Thái Bình Dương » xuất hiện như một khái niệm hơi ôm đồm một chút nhưng hiện giờ được sử dụng rất nhiều để suy nghĩ lại về mối quan hệ với châu Á.Ấn Độ-Thái Bình Dương hoàn toàn không có gì rõ ràng nếu chỉ nhìn về mặt địa lý, cho nên cần tập hợp được trong số đặc biệt này của tạp chí các nhà nghiên cứu có những cách nhìn tương đối khác nhau về cách hình thành khái niệm địa-chính trị này. Ấn Độ-Thái Bình Dương là một khái niệm chính trị, do đó phải để các nhà nghiên cứu nêu lên vấn đề này và kết nối khái niệm đó vào những thực tế lãnh thổ.RFI : Khoảng 10 chuyên gia Pháp và quốc tế chia sẻ quan điểm của họ trong số đặc biệt này. Điểm đặc biệt của họ là gì ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên cần nhắc lại việc hình dung ra không gian Ấn Độ-Thái Bình Dương này nằm trong chủ trương mới về tương quan lực lượng của quốc gia đang thực sự tìm cách cải thiện tình hình của mình, thậm chí là chiếm ưu thế nào đó. Cho nên cần có những nhà nghiên cứu Pháp và nước ngoài suy nghĩ về khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhìn từ Nhật Bản, châu Âu hay từ Đông Nam Á, bởi vì mỗi quốc gia, mỗi một vùng nhỏ có cách nhìn khác nhau về khái niệm bao quát này. Thực thể địa lý này không tồn tại, mà đây là một thực thể chính trị được hình thành, hình dung và phát triển qua lập luận chính trị của các Nhà nước liên quan. Điều thú vị là trong thời gian đầu, mục đích của những người sử dụng rộng rãi khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương này, như các nhà ngoại giao, các nhà quân sự, không giống nhau. Thực vậy, chúng ta biết là khái niệm xuất hiện trong khoảng những năm 2000 - 2010. Ý tưởng gộp cả hai vùng Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương thành một thực thể địa lý thực sự là vô cùng kỳ lạ đối